VHSG- Nối tiếp “Tưởng tượng và dấu vết”, “Người mê”, thì “Cô độc” vẫn là cuốn tiểu thuyết mà Uông Triều tiếp tục hành trình khám phá, giải phẫu tâm lí con người với những tầng vỉa sâu hơn, khó nắm bắt hơn…
Cuộc sống là hành trình con người đi tìm mình và tự khẳng định mình. Trong những ngày tháng chông chênh và vô định, không ít người dễ phải trải qua nỗi cô đơn, thậm chí là sự lạc lối khi đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa của sự tồn tại. Tuy nhiên, sống đúng bản ngã, “chết cho tư tưởng” có lẽ là mục đích lớn nhất của những cá nhân muốn được là mình và được cống hiến. Tiểu thuyết “Cô độc” của nhà văn Uông Triều đã gợi mở cho người đọc thấy rõ điều đó.

1. Tôi là ai?
Nhà triết học Socrates đã từng nói: “một cuộc sống không bị tra vấn, là một cuộc đời không đáng sống”. Cho nên câu hỏi “Tôi là ai”? luôn là sự tìm kiếm có ý nghĩa của triết học, tôn giáo và văn học nghệ thuật. Như một nỗ lực để hiểu chính mình, nhân vật Ba – B trong tác phẩm đã có cả một hành trình phân thân trong quá khứ – hiện tại, các vai khác nhau người tình – người con – người chồng – biên tập viên, trong mối quan hệ khác nhau tình yêu – gia đình – cơ quan – riêng bản.
Trong hành trình đó, nhân vật được nhà văn khai thác, mổ xẻ đến tận cùng mọi ngõ ngách tâm lí, mọi suy nghĩ sáng tối, kể cả những cảm giác mới chỉ chập chờn, mong manh, mơ hồ vừa chạm đến, để nhân vật thực sự được sống đúng với bản thể, với phần sâu kín nhất của chính mình.
Uông Triều đã quan sát nhân vật từ hai điểm nhìn chính: Ba và B. Gắn với điểm nhìn về Ba là mối quan hệ của anh với gia đình, những chuyến đi và với Cầm. Còn gắn với điểm nhìn từ B là công việc của một biên tập viên, với đồng nghiệp. Hai con người, hai mảng màu này khi soi chiếu, khi hòa hợp, khi mâu thuẫn, khi đồng nhất, làm nhân vật hiện lên với mọi chiều kích.
Đầu tiên trong công việc, B được biết đến là một biên tập viên sách giỏi, cá tính của nhà xuất bản. Anh làm việc trong căn phòng hơn trăm năm tuổi chỉ dành cho người giỏi nhất, không có hoán đổi giữa chừng, trừ phi về hưu hay chết đi thì người khác mới được thay thế.
Khao khát lớn nhất của đời anh là “tìm kiếm một bản thảo vĩ đại làm lừng danh cho sự nghiệp” và “lưu danh trong nền văn chương thế giới”. Đã có lúc gặp được bản thảo hay, thấy “những con chữ nhảy múa, chứa đựng những bí ẩn khôn cùng”, lại sẵn tư tưởng ủng hộ cái mới và nổi loạn, những tưởng ước nguyện của B sẽ đạt được, thế nhưng cái anh nhận được lại toàn những thứ nhạt thếch, vô vị.
Càng cố công tìm kiếm thì lại càng không thấy. Đặt nhân vật vào bi kịch này chính là một thủ pháp để Uông Triều có dịp giải phẫu toàn bộ bí ẩn sâu kín trong nội tâm bản thể con người. Ấy là cảm xúc giận dữ của B khi thẳng tay ném những bản thảo tồi vào lò sưởi, là khoái cảm khi nhìn thấy những tờ giấy cháy quăn, là ngạo nghễ ngắm những tàn tro nguội lạnh, là hưng phấn bất tận khi ngửi mùi giấy cháy…
Với B, nếu “tất cả những thứ quá xuất sắc đều bị căm ghét” thì tất cả những thứ rác rưởi cũng cần loại sạch. Anh buồn đau vì không thể giúp những cuốn sách hay ra đời thì phải cố gắng để những thứ tồi tệ vĩnh viễn không bao giờ xuất hiện.
Với gia đình, mối quan hệ của Ba cũng lỏng lẻo, đứt gãy. Anh và bố không hợp nhau. Mọi sự lựa chọn của anh đều đi ngược lại: bố muốn anh hoạt bát, năng nổ thì anh lại đắm mình vào thế giới suy tư, chọn công việc trầm lặng. Bố muốn anh gần nhà thì anh lại chọn một công việc nơi xa.
Người Việt thường phải gánh trên vai rất nhiều trách nhiệm nên sẽ là tội lỗi nếu như ai đó chỉ biết sống cho mình. Nhưng với Ba, nếu sống chỉ để làm hài lòng người khác thì sẽ là giả dối với bản thân, mà anh thì lại khát khao đến tột độ được là chính mình. Anh chấp nhận trở thành đứa con bất hiếu, chấp nhận đi ngược lại truyền thống để sống đời mình, dẫu cho là khiếm khuyết.
Trong quan hệ với những người tình, tác giả để cả Ba và B cũng xuất hiện. Ba đầy đủ, trọn vẹn với Cầm và B hao khuyết, mất mát với Ngọc. Dẫu với ai thì anh luôn bị rơi vào tình trạng mâu thuẫn: muốn yêu, muốn được làm tình, muốn đi đến khoái cảm tận cùng nhưng lại không muốn gắn cuộc đời mình với bất cứ một ai, dù đó có thể là tình nhiều năm với Ngọc, tình một đêm với Cầm, hay tình phảng qua với các cô gái trong các chuyến lãng du. Bi kịch của Ba – B là càng muốn trốn vào dục vọng để khỏa lấp sự cô độc thì lại càng cô độc. Bởi lẽ đi tận cùng của khoái cảm thì con người ta chẳng còn khoái cảm nào nữa, thay vào đó chỉ là sự trống rỗng, cô đơn.

Với những người xung quanh, B rơi vào bi kịch bị mất trí nhớ, hay “trí nhớ suy tàn”. Anh như một nhân vật bị mất quá khứ. Quá khứ của anh nhiều khi là những khoảng trắng xóa. Tất cả các hình ảnh của cuộc sống cứ mờ mờ, ảo ảo, các sự việc cứ không đầu không cuối, giăng mắc như khói sương, rồi rơi vào quên lãng…
Như vậy, câu hỏi “tôi là ai?” đặt ra trong “Cô độc” của Uông Triều thật không dễ trả lời, nó cho thấy rằng con người của đời sống hiện đại ngày càng phức tạp, không hề đơn giản, không hề trong suốt. Đặc biệt khi hướng tiếp cận của tác giả là đào sâu vào nội cảm thì càng khiến con người trở nên khó nhận diện, bởi mỗi một chiều kích sẽ có những gương mặt khác nhau. Ấy là một biên tập viên B tài năng, trách nhiệm nhưng cũng lạnh lùng, tàn nhẫn, kì dị. Là người tình đắm say nhưng cũng bạc bẽo. Là người con đầy trăn trở với gia đình nhưng cũng ích kỉ. Qua nhân vật, người đọc thấy được mối quan hệ giữa con người trách nhiệm và con người tự do được đưa lên lựa chọn, và cách sống đúng với bản ngã đã cho thấy sự chiến thắng của tự do.
2. Chết cho tư tưởng
Lí tưởng suốt đời của B là được sống trong cô độc, vùi mình trong tĩnh lặng. Hành trình cuộc đời anh là những chuyến đi xa, về núi, về biển, về hồ – những nơi yên lặng và cô tịch. Chỉ những nơi đó anh mới chạm được vào miền thân thuộc sâu thẳm của lòng mình. Nếu không thì B sẽ giam mình vào không gian của căn phòng bí hiểm, ở đó anh được sống với mọi nghĩ suy và tưởng tượng.
Những đám đông chưa bao giờ cho anh hứng thú, chỉ khi một mình, anh mới thấy thoải mái và dễ chịu. Anh chọn nghề biên tập sách cũng bởi nó là một trong những nghề cô độc nhất thế giới, không phải tiếp xúc với nhiều người. Rồi B chấp nhận cuộc sống không vợ, không con, không bạn bè, chỉ có rượu và người tình. Anh coi đó là cái giá phải trả và cũng là cái được nhận từ lối sống này.
Thậm chí B còn sẵn sàng chết cho tư tưởng của mình. Là một biên tập viên bản lĩnh, anh không chỉ làm việc với những con chữ rất đam mê, ngăn cản sự ra đời của những tác phẩm tồi, mà còn đấu tranh chống lại những thế lực ngầm vẫn đang chi phối đến hoạt động của nhà xuất bản – để trở thành “kẻ phản bội vĩ đại”.
B đốt di ảnh của giám đốc đầu tiên và hai biên tập viên tiền nhiệm từng làm việc trong phòng anh. Rồi anh muốn đập nát những hình nhân tượng sáp trong tủ kính, muốn “giáng cho những kẻ ấy một cú chí mạng mà không sợ bị trừng phạt”, dẫu có trở thành “kẻ sát nhân trong thế giới câm lặng tuyệt đối”. Bởi vì sao? Vì chúng là hiện thân của bóng tối, của cái bảo thủ trì trệ, là thế lực kìm hãm sự phát triển. Bọn họ chết rồi nhưng cứ không chịu chết hẳn, vẫn muốn có tiếng nói ghê gớm điều khiển người sống, khiến Mạo phải tự tử, Ngụy phải cắt tai. Rồi B còn đốt cả bức ảnh của chính mình để sau này nó không còn là bóng ma đe dọa người khác. Cái chết của B khiến người ta nghĩ đến những mẫu người sẵn sàng tử vì nghiệp, họ đấu tranh và kết thúc cuộc đời để cho một bình minh mới được lóe rạng. Cái chết ấy là một cách thức để tạo hình cho lý tưởng.
Nối tiếp “Tưởng tượng và dấu vết”, “Người mê”, thì “Cô độc” vẫn là cuốn tiểu thuyết mà Uông Triều tiếp tục hành trình khám phá, giải phẫu tâm lí con người với những tầng vỉa sâu hơn, khó nắm bắt hơn. Cái “tạng” văn dám nói hết, viết hết những gì mình nghĩ, người khác nghĩ, đời sống có thể có, đi đến tận cùng mà không sợ hãi hay thỏa hiệp theo lòng độc giả đã trở thành căn tính nhà văn của Uông Triều. Và với “Cô độc”, Uông Triều đã có dịp đưa người đọc dạo một vòng qua cái thênh thang của của tâm hồn, quăng họ xuống cái sâu tối của bản năng, bắt chứng kiến cơn cùng quẫn mà nhẹ tênh của bản thể, để vừa khinh bỉ, vừa xót xa, vừa trân quý con người.
NGUYỄN THANH HƯƠNG
Nghệ thuật là gì có trả lời được cho sự tồn tại là gì?
Tôi nghĩ, đó có phải là một vấn đề nghiên cứu của triết học hiện đại Việt Nam? Không phải là đi tìm cái tôi là gì nữa mà giờ đây là đặt cái tôi ấy trong một hệ, trong một môi trường mà trong đó môi trường sinh thái là một ví dụ thế.
Tôi nói mơ màng vậy để dẫn nhập vào bài viết này tôi cứ nghĩ B chỉ cần đặt tay lên bản thảo thì toàn bộ các nơ ron thần kinh sẽ bùng nổ tạo ra cho anh ấy một khả năng. Khả năng ấy của B gọi là khả năng tín hiệu. Những ngón tay lướt trên bàn phím bây giờ cũng có khả năng ấy khi người văn nghệ sĩ viết lên những ngôn ngữ của tư tưởng! Tôi lại nhớ tới bàn tay sáu ngón, nhưng chả phải vậy (tôi dùng từ chả giò nem chua ở đây phóng khoáng quá – xin lượng thứ), tức là cảm giác như các ngón tay của B có thêm sức mạnh đó là sức mạnh xúc giác của một tài năng . Anh yêu nghề tới mức đó, chuyên gia với nghề bản thảo tới mức đó. Hoặc tương đương thế, B chỉ cần cúi xuống ngửi là thấy có chấp nhận được bản thảo ấy hay là không?
Một thời gian sau đó B phát triển năng lực của mình, và chính cuộc sống tình ái mà bằng xúc giác đôi tay của mình mà B đi tìm nghệ thuật chân chính, mằng cái mũi cảm nhận được mùi hương của một tác phẩm lớn mà B đi tìm cái tôi cô độc! Anh đi vào các cuộc tình để rồi nhận thấy đó là sai lầm, bàn tay và khối óc không nhận biết đâu ra được giá trị và tìm ra được cái đẹp và cái giá trị của một tác phẩm lớn. B hiểu ra người đẹp C, người đẹp D, con người E không phải là tác phẩm lớn mà anh đang tìm kiếm.
Quay trở về tìm nguyên nhân, B phát kiến ra rằng chính là những cổ hủ trong bản thân anh. B dùng chính tay mình sờ lên trán mình, dùng chính cái mũi của mình ngửi ngón chân mình, cắt tóc ra ngửi tóc, cắt da ra ngửi ra, cắt thịt mình ra để ngửi thịt mình…rồi anh phát hiện ra từ tuổi thơ của mình, mối quan hệ với cha mình, với mẹ, với anh em, với xã hội, rồi lý tưởng, những hình tượng, những văn hóa…vv và vân vân, từ đó dẫn tới đập phá, dẫn tới vỡ mộng, xé tranh ảnh là hình tượng cố hữu trong ngành….và gì gì nữa tôi có thể viết dài dài ra đây để chúng ta thấy rằng…tiểu thuyết cần đẩy lên tới giới hạn của nó chứ không nên dừng lại ở một thực tế thông thường!
Thực ra chưa đọc tiểu thuyết này, nhưng trả lời câu hỏi tôi là ai và chết cho lý tưởng như trong hai phần của bài viết này, tôi thiết nghĩ đó là bài toán của triết lý, của triết học hiện đại Việt Nam cần giải quyết, tác giả Uông Triều cảm giác như muốn đặt ra các vấn đề ấy cho cuộc sống nhân sinh và phồn sinh này chăng? Tôi chờ đợi những tác phẩm tiếp theo của anh.
Hòa Phong.
Tôi suy tư về bài viết này.
Thực ra tôi đã viết ra những điều mình suy nghĩ, và thật ra tôi tự cảm nhận thấy mình thật xấu xa khi nói ra những điều mà chẳng ai muốn nghe cả. Thực tế trong bài viết này có những mâu thuẫn. Và tôi đoán trong tiểu thuyết của nhà văn Uông Triều cũng sẽ tương tự có mâu thuẫn như vậy. Đây có phải là chiêu truyền thông hay không? Tôi nghĩ không phải.
Tác giả Uông Triều đã từng trải khi viết tiểu thuyết, vì đây không phải là tác phẩm đầu tiên của anh. Đọc bài viết sẽ thấy sự rắc rồi đan xen nhau. Mới ngắn như bài viết thôi mà đã rắc rối rồi thì nội hạm tiểu thuyết sẽ như thế nào! Rắc rối mới là tiểu thuyết? Chẳng phải đó là sai lầm sao? “ai cũng muốn được cống hiến, cũng muốn được là mình” chỉ có điều biện pháp và cách làm như thế nào thôi.
Cả nhân vật B và Ba đều mâu thuẫn, có thể là phân thây là một người nhưng trong các phân tách ý thức khác nhau của tinh thần. Sự diễn ấy vẫn chưa đạt hay sao mà cả đặc điểm cuốn hút, lô gic của sự phù hợp, sự biến tấu của nghệ thuật trong kết cấu …tôi chỉ đọc bài viết thế nên tôi tâm tư và suy tư về bài viết này không phải là tiểu thuyết “cô độc”. Ba mâu thuẫn ở trên là sống không chỉ đê làm hài lòng người khác…rồi chuyên ngược lại để rồi tác giả chỉ cho Ba và B cùng tận cùng của khoái cảm dục vọng, chứ không rõ ràng là B có khoái cảm với công việc, Ba có khoái cảm cái tôi. Nếu bộc lộ trên diện rộng của khoái cảm ngoài chỉ của cái khoái cảm dục tính thì hay hơn!
Kết thúc của Ba và B làm cho tôi chú ý. Nhưng chúng ta đừng coi cái chết và các kết cục ấy để là “tạo hình cho lý tưởng” …không cổ xúy cho cái chết để tạo tiếng vang và hình bóng lý tưởng nào đó. Bài viết không nhắc tới tức là các chú ý tới tình tiết của tiểu thuyết sẽ không có: tức là không có các yếu tố triết học để đi sâu khai thác; không có cái đi tận cùng để những khoái cảm của cái tôi của Ba, tức là làm ngược lại những điều truyền thống dẫn đến kết thúc tàn tạ như là một sự tạo ngụy cho nhân quả hiện tại, lối lập lại của một xu thế; với sự thay đổi của B, hình ảnh đốt tác tác phẩm như là của một kẻ tâm thần, hình ảnh xé di ảnh và mong đập hết, tức chỉ mong chứ không thực hiện để “không còn là bóng ma” sự kỳ dị thế mà cũng là một người tài, có phòng làm việc riêng…có phải đây là hình ảnh của các lãnh đạo, vì cấp nào đó mới có phòng làm việc riêng như thế này? …còn không bạn bè …chỉ có người tình, chỉ có rượu..chúng là B chẳng tài, chẳng làm gì ra hồn cả! và với cách suy tư như thế mà tác giả bài viết còn nói là chết đi để tạo hình cho lý tưởng thì tôi cũng cảm thấy lạ. Tất nhiên tác giả nói về sự đấu tranh và để nảy sinh ra điều to tác, tốt đẹp…nhưng bằng cách đốt để thưởng thức tro tàn tác phẩm ra như thế này thì không ổn tí nào, hoặc sẵn sàng tử vì nghiệp, đấu tranh với thế lực thế này cũng không ổn tí nào cả! …có lẽ phải suy tư tiếp và tìm hiểu tiếp, và tôi mong muốn trao đổi và chúng ta trên tinh thần khám phá để tạo ra những gì khám phá tốt đẹp chứ không có ý này ý kia, xin bỏ qua những lời chưa phải.
Hòa Phong.