Thơ Wyslawa Szymborska: Chẳng có gì cho không

Wyslawa Szymborska sinh ngày 2.7.1923 tại Kornik gần Poznan. Năm 1929 gia đình bà chuyển lên cố đô Krakow. Bà đã từng học văn học Ba Lan và xã hội học tại Trường Đại học Jagielonski nổi tiếng. Năm 1945 bà khởi đầu sự nghiệp sáng tác bằng bài thơ “Tôi tìm lời”. Năm 1952 bà in tập thơ đầu tay “Vì lẽ này chúng ta đang sống” và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan.

Wyslawa Szymborska đã nhận được nhiều giải thưởng văn học. Năm 1954 bà nhận giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 bà giành giải thưởng của Bộ trưởng Văn hoá Nghệ thuật Ba Lan; năm 1991 Giải thưởng Goethe của Đức; năm 1995 Giải thưởng Herder của Áo. Năm 1996 chỉ với hơn hai trăm bài thơ đã công bố bà đã đoạt giải Nobel Văn học danh giá vì “những tác phẩm thơ của bà tái hiện chân thực một thế giới mà ở đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng của một công dân, một nghệ sỹ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại”.

Thơ của Wyslawa Szymborska đã được dịch ra gần bốn mươi thứ tiếng trên thế giới.

Bà mất ngày 1.2.2012 tại Krakow. Năm nay, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bà, Quốc hội Ba Lan đã quyết định lấy năm 2023 là Năm Wyslawa Szymborska. Nhân dịp này Vanvn.vn xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số bài thơ của bà được dịch giả, nhà văn Tạ Minh Châu chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan.

Nữ thi sĩ Wislawa Szymborska (1923-2012) của Ba Lan

ĐÃ CÓ LÚC

 

Đã có lúc chúng ta hiểu lộn xộn về thế giới:

– thế giới nhỏ đến mức từng nằm gọn trong một cái bắt tay

dễ đến mức từng cho phép miêu tả bằng một nụ cười

bình thường như tiếng vang

của những sự thật cũ mèm trong lời cầu nguyện.

 

Lịch sử đã không đón chào bằng điệu kèn chiến thắng:

– cát bẩn đã rơi vào mắt.

Trước mặt chúng ta là những nẻo đường

tối tăm và xa lắc

những giếng nước bị đầu độc

và bánh mỳ đắng cay.

 

Chiến lợi phẩm của chúng ta

đó là sự hiểu biết của ta về thế giới:

– thế giới to đến mức nằm gọn trong một cái bắt tay

khó đến mức cho phép miêu tả bằng một nụ cười

lạ kỳ như tiếng vang

của những sự thật cũ mèm trong lời cầu nguyện.

 

NHỮNG CON VẬT LÀM XIẾC

 

Những chú gấu dậm chân theo nhịp nhạc

chú sư tử lao qua những vòng lửa

chú khỉ mặc áo vàng đạp xe

chiếc roi rít lên và vang lên tiếng nhạc

chiếc roi rít lên và mắt thú đung đưa

chú voi nâng cái chai trên đầu

những chú chó thận trọng

đo những bước chân và nhảy múa.

 

Tôi – con người thấy vô cùng xấu hổ.

 

Ngày hôm đó người ta đã vui đùa rất dở:

họ không tiếc những tràng pháo tay dội vang

dẫu cánh tay dài hơn chiếc roi

vẫn hằn rõ bóng mình trên cát.

 

CHẲNG CÓ GÌ CHO KHÔNG

 

Chẳng có gì cho không

tất cả đều là vay mượn.

Chìm trong nợ nần

tôi sẽ phải lấy tôi mà trả nợ cho tôi

lấy cuộc sống trả vào cuộc sống.

 

Điều đã được định đoạt đó là:

phải trả lại tim, lại gan, lại từng ngón tay riêng biệt.

 

Đã quá muộn để hủy bỏ điều kiện của bản hợp đồng

Những món nợ sẽ lột xác tôi cùng với làn da.

 

Tôi đi trên thế gian này

giữa đám đông của nhiều con nợ.

Một số buộc phải trả bằng cánh

số khác dù muốn hay không

sẽ phải trả bằng lá cây.

 

Bất kỳ tế bào nào trong chúng ta

cũng đều mắc nợ.

Chẳng có một đốt rong, một cuống hoa

tồn tại vĩnh hằng.

 

Bản danh mục thật rõ ràng

và có lẽ là

chúng ta sẽ thành những kẻ trắng tay.

 

Tôi không thể nhớ ngày

ở đâu và để làm gì

tôi đã cho phép mình mở tờ quyết toán.

 

Sự phản kháng chống lại tờ quyết toán

chúng ta gọi là tâm hồn.

Đó là điều độc tôn không nằm trong danh mục.

 

BẢO TÀNG

 

Những chiếc đĩa, nhưng chằng ai thèm khát

Những chiếc nhẫn, nhưng chẳng có tình yêu lứa đôi

ít nhất cũng ba trăm năm rồi .

 

Một chiếc quạt, nhưng ở đâu nét mặt đỏ gay?

Những thanh kiếm- nhưng ở đâu cơn giận dữ?

Và chiếc đàn tỳ bà ngái ngủ

không một lần rung lên.

 

Vì không có sự vĩnh hằng

người ta đã sưu tập vào đây mười nghìn đồ cổ.

Anh bồi giấy mốc meo chợp mắt thật ngon lành

râu vương trên kính tủ.

 

Kim loại, thạch cao, lông chim

qua thời gian lặng im ăn mừng chiến thắng.

Chỉ chiếc trâm của người đàn bà Ai Cập khúc khích cười.

Bàn tay đã thua chiếc găng tay

Chiếc giày chân phải đã thắng bàn chân phải.

 

Còn tôi

xin hãy tin là tôi đang sống.

Cuộc chạy đua của tôi với chiếc áo dài

vẫn đang còn sôi động.

Ôi, nó mới bướng bỉnh làm sao?

Tựa như muốn mình bách niên tồn tại.

 

NHỮNG VẦN THƠ VÔ VỊ

 

Một niềm vui lớn: hoa bên hoa

Những cành cây trên nền trời trong vắt

Niềm vui lớn hơn: ngày mai thứ tư

Chắc chắn là em sẽ nhận được thư

Niềm vui lớn hơn: chiếc phong bì run rẩy

Nực cười biết bao khi đọc trong quầng tối mặt trời

Niềm vui lớn hơn: chỉ một tuần nữa thôi

Chỉ còn bốn ngày sẽ là kết thúc

Niềm vui lớn hơn: một chiếc va li

Em cúi xuống và va li đóng sập

Niềm vui lớn hơn: một chiếc vé

Chuyến bảy giờ sáng, phải rồi, xin cám ơn

Niềm vui lớn hơn: ngoài ô cửa toa tàu

Quang cảnh nối nhau lướt qua vun vút

Niềm vui lớn hơn: tối và tối mịt

Đêm nay chúng mình sẽ lại kề bên

Niềm vui lớn hơn: em mở toang cánh cửa

Niềm vui lớn hơn: hoa và hoa.

– Sao anh mua những bông hoa… đắt vậy?

Tranh của họa sĩ Nguyễn Khôi

BẦU TRỜI

 

Phải bắt đầu từ đây: từ một bầu trời

Chiếc cửa sổ không bệ, không khung, không kính

Một lỗ thủng và tuyệt nhiên chẳng có gì hơn

nhưng là một lỗ thủng mở ra vô tận.

 

Tôi chẳng phải chờ tới đêm trời đẹp

hoặc ngẩng đầu lên để ngắm được bầu trời.

Bầu trời ở sau lưng, dưới tay và trên mí mắt.

Bầu trời bọc kín xung quanh và nâng tôi bay bổng.

 

Thậm chí những ngọn núi cao nhất

cũng không gần trời hơn những thung sâu nhất.

Chẳng có ở nơi nào bầu trời lại nhiều hơn nơi khác

Một đám mây cũng tựa vào trời y như mộ đất

Con chuột chũi cũng được lên trời như con quạ đang bay.

Một vật thể rớt xuống vực sâu

chính là đang rơi

từ bầu trời cao vào lại bầu trời.

 

Những mảnh trời đặc sệt, loãng tan và lởm chởm

những vùng trời rực nắng, nhẹ bay

những làn gió thổi ngang trời và bao đụn lúa.

Bầu trời ở khắp mọi nơi

ngay dưới làn da, cả trong bóng tối.

 

Tôi ăn bầu trời, tôi thải bầu trời.

Tôi là bẫy trong bẫy

một cư dân được phép ngụ cư

một cái ôm được ôm

câu hỏi trong trả lời câu hỏi.

 

Sự phân chia thành trái đất, bầu trời

đó chẳng phải là cách đúng

của tư duy về sự vẹn toàn

nó chỉ cho phép sống

với một địa chỉ chính xác hơn, dễ tìm hơn

nếu như tôi bị tìm.

Những dấu hiệu của riêng tôi

đó là sự đắm say và thất vọng.

 

NGÔI MỘ

 

Nằm ở đây là nữ tác giả của một vài bài thơ

cổ xưa như dấu phẩy

Dẫu xác chết không thuộc nhóm văn nào

Đất vẫn sẵn lòng dành cho giấc ngủ ngàn thu.

 

Nhưng trên ngôi mộ kia

cũng chẳng có gì hay hơn

ngoài một bài thơ ghép vần

con cú mèo và một loài cây dại.

 

Hỡi khách vãng lai

hãy lấy trong cặp ra bộ óc điện tử

và hãy suy ngẫm

một giây về phận đời Szymborska.

 

CĂN PHÒNG CỦA KẺ TỰ SÁT

 

Hẳn các bạn nghĩ rằng căn phòng trống rỗng

Ở đó có ba chiếc ghế dựa vững trãi

Ngọn đèn sáng xua đi tối tăm

Chiếc bàn làm việc

trên bàn là chiếc ví và báo chí

Đức mẹ buồn dầu, Đức Phật từ bi

Bảy chú voi cầu may

sổ ghi chép nằm trong ngăn kéo.

Các bạn nghĩ rằng trong đó

không hề có địa chỉ của chúng ta?

 

Các bạn nghĩ rằng không có sách, tranh và đĩa nhạc?

Ở đó có chiếc kèn trong đôi tay màu đen

Saskia cầm bông hoa nhỏ

Tia sáng niềm tin của các vị thần

Đĩa hát của Odys nằm ngay trên giá

sau vất vả của bài hát thứ năm đang chìm trong giấc ngủ.

Những nhà đạo đức học tên được viết bằng nét chữ vàng

trên gáy thuộc da của những cuốn sách.

Những chính trị gia đứng ngay kề bên.

 

Căn phòng này có vẻ

không phải là không có lối ra

Chí ít là có thể đi qua cửa chính

không phải là không cận kề phong cảnh

chí ít là có thể ngắm nhìn qua ô cửa kia.

Chiếc ống nhòm đã nằm trên bệ cửa.

Một con ruồi đã bay vo ve

có nghĩa nó hãy còn đang sống.

 

Các bạn nghĩ rằng

ít nhất một lá thư

cũng làm cho sáng tỏ điều gì.

Còn nếu như tôi nói với các bạn rằng

lá thư đã không hề có

bấy nhiêu chúng ta những người bạn thân

tất cả đã đều ở trong chiếc phong bì trống rỗng

được đặt tựa nghiêng nghiêng vào chiếc cốc.

 

Ở SÂN BAY

 

Họ dang tay chạy đến với nhau

khuôn mặt rạng ngời và gọi :

Ôi, đã đến, đã đến!

Cả hai trong những bộ áo quần mùa đông nặng chịch

đội những chiếc mũ ấm

quàng khăn, đi giầy da.

Nhưng đó chỉ là với chúng ta

Bởi với mình- họ trần như nhộng.

 

CUỐI THẾ KỶ

 

Thế kỷ hai mươi của chúng ta

lẽ ra phải tốt hơn rất nhiều thế kỷ

nhưng đã không kịp để chứng minh điều đó

năm tháng sắp hết

bước đi chuệnh choạng

thở như người hụt hơi.

 

Đã quá nhiều điều xảy ra lẽ ra không cần có

Những gì lẽ ra phải đến lại chẳng hề thấy đâu.

 

Lẽ ra phải hướng về mùa xuân

Hướng về con người, hạnh phúc

Lẽ ra phải giã từ thung, núi

Trong cuộc chạy đua

sự thật phải về đích nhanh hơn lừa dối.

 

Lẽ ra một vài bất hạnh

đã không thể xảy ra

ví như chiến tranh, nạn đói.

 

Lẽ ra niềm tin

sự yếu đuối của những người yếu đuối

cùng bao điều tương tự

phải được con người nâng niu.

 

Nếu ai đó muốn thế giới chia vui

sẽ chẳng bao giờ làm nổi.

Sự ngu dốt chẳng nực cười

Sự thông minh chẳng hề vui nhộn

Niềm hy vọng đáng tiếc không còn là cô gái trẻ

vân vân và vân vân.

 

Thượng đế cuối cùng lẽ ra phải tin

vào con người tốt lành, mạnh mẽ

tiếc thay vẫn chỉ hai người.

 

Sống thế nào đây?

Trong một lá thư ai đó đã hỏi tôi

Tôi cũng đã định hỏi ai về một điều tương tự

Lại giống như muôn thuở

Những gì ta thấy ở bên trên

Chẳng có câu hỏi nào bức bách

bằng những câu dại khờ.

 

WYSLAWA SZYMBORSKA

TẠ MINH CHÂU dịch

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *