Bút ký Phan Trung Nghĩa: Chái bếp nhà quê

VHSG- Chái bếp nhà quê mà tôi muốn nói đến giờ đây chỉ còn trong ký ức. Vào khoảng hơn 40 năm trước, khi đó tôi mới lên chín, lên mười, mỗi bận đi làm đồng hay giăng lưới, cắm câu xa, chiều chèo xuồng về gần đến nhà, thấy cái bếp nhà mình quyện khói lam trên mầu trời chiều tím sẫm là lòng thấy ấm lại. Ở đó, má tôi, chị tôi và sau này là em gái tôi đang cặm cụi kho cá, nấu cơm. Rồi bữa cơm chiều khi đỏ đèn dọn ra, cả nhà quây quần vừa ăn vừa nói chuyện râm ran. Tôi ăn một bữa cơm ngon lành.

Mười bảy tuổi, tôi đã bắt đầu xa quê, đó là một chuyến đi dài đến tận bây giờ. Thi thoảng tôi mới về thăm quê cũ. Sau này, khi má tôi qua đời, chị Hai tôi bị máy bay Mỹ bắn chết, còn em gái tôi đi lấy chồng xa, mỗi lần về thăm quê, nhìn cái chái bếp lạnh tanh, thiếu vắng những hình bóng cũ, lòng tôi cứ xốn xang, nặng trĩu những bùi ngùi. Khi đó, tôi mới ngộ ra rằng, cái chái bếp chính là không gian của nhiều thế hệ phụ nữ nối tiếp nhau thắp nên một ngọn lửa tình cảm gia đình, làm nên cái hồn gia đình trong mỗi cuộc đời chúng ta.

Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Làng tôi được những lưu dân khẩn hoang từ miệt Tiền Giang kéo về đây lập ra khá lâu đời. Thế nhưng, hàng trăm năm qua, nó vẫn là một xóm nhỏ nghèo xơ xác và buồn hiu hắt. Xóm nằm trên sông Bạc Liêu nhưng lại là khúc sông buồn, khúc sông lượn như con rắn với những doi, những vịnh. Ven bờ, bần, mấm, lá dừa… mọc chúc đầu xuống sông như liễu rủ. Chiều xuống, nước nhửng lớn, tiếng bìm bịp kêu dội rền rền trên mặt sông nghe âm u và trầm uất đến lạ. Xóm có 200 nóc nhà toàn làm bằng cột cây rừng và lợp lá dừa nước. Nhà cất một kiểu giống nhau: một căn nhà lớn ba căn và đeo bên hông nó là một gian nhà nhỏ liền kề, mà nông dân gọi là chái bếp. Người dân ở đây xem trọng việc xây chái bếp như ngôi nhà chính. Họ quan niệm: Nếu ngôi nhà lớn cất nhằm ngày tốt, hướng tốt… thì con cái học hành đỗ đạt; mùa màng, công việc làm ăn… sẽ thuận buồm xuôi gió. Còn nếu chái bếp tốt thì gia đạo sẽ thuận hòa, đầm ấm. Thế nên, khi cất chái bếp, ai cũng nhờ thầy coi ngày lành, hướng đặt miệng lò. Khi chụm bếp lửa đầu tiên phải cúng bái bằng trái cây hoặc chè, xôi. Và đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch là cúng đưa ông Táo về trời. Sau đó thì chùi rửa sạch sẽ bàn thờ ông Táo, dán liễn mới. Ðến ngày 30 Tết, gia chủ lại làm lễ rước ông bà, trong đó có rước ông Táo. Người dân quê tôi xem trọng ông Táo cho nên mấy cái lò nặn bằng đất sét đó họ gọi một cách trân trọng là “ông lò”.

Những câu chuyện mà ông bà, cha mẹ tôi kể về thuở mới đến đây dựng nghiệp đã giúp tôi hình dung được cái bếp lò thời khẩn hoang. Hồi ông bà tôi đến xứ Bạc Liêu khẩn hoang đã dựng một căn chòi lá cặp bờ sông làm chỗ trú mưa nắng. Và họ chọn một góc chòi để làm bếp. Bếp lúc này là ba cục đất sét được nặn giống như con cờ vua rồi xếp chụm đầu lại. Trên đầu đặt xoong, chảo, dưới đất đặt củi đốt lò. Vật liệu đốt lò gồm bất cứ thứ gì dễ cháy như cành cây khô, lá khô. Thậm chí, có gia đình chất một đống rơm cạnh nhà, hễ tới bữa thì ra rút rơm vào nấu quanh năm. Bếp lửa nhà đó nổi lên thì khói mù mịt, người nấu cơm mắt, mũi chảy nước tèm nhèm. Vậy mà rồi hóa ra hay, khói đã xua được bầy muỗi đói vốn rất nhiều đến phát sợ.

Người khẩn hoang xưa khi đi dọn rừng, phát ruộng xa chòi thường mang theo một bếp lò di động. Họ xách ba ông Táo hay một cái lò nặn bằng đất sét có đáy đã được nung chín để trước mũi xuồng. Ðến nơi làm, họ chọn một chỗ khô ráo rồi đặt lò và nhặt cành cây khô để đốt lửa. Ðầu tiên là để xua muỗi, sau đó là khi dọn rừng, phát ruộng, nếu gặp cua, vọp, ốc, rùa, rắn… thì bỏ vào lò nướng. Ðến giữa buổi nghỉ trưa, họ vo gạo, bắc nồi cơm lên, còn thức ăn thì đã có sẵn. Thế là bữa cơm được dọn ra. Người ta ăn đến 5 – 7 chén cơm vì lao động cực nhọc, vì thức ăn là đặc sản nên ăn hết sức ngon.

Ðất đai ở quê tôi nhiễm mặn quanh năm, cuối mùa gặt lúa thường bị háp trắng, nên nhiều người xoay qua chất chà, hoặc giăng lưới bắt cá, tôm trên sông Bạc Liêu kiếm sống. Mỗi lần đi đánh cá họ đều xách theo một chiếc lò đất nung dùng để un khói xua muỗi. Khi đói, họ cho mũi xuồng ghé vào một lùm cây khuất gió rồi nổi lửa lên nấu cơm, cũng có khi là nấu trà để uống.

Ðến thời tôi biết, chái bếp của mỗi gia đình ở quê tôi được xây cất gọn gàng, tươm tất hơn. Tươm tất gọn gàng theo kiểu của hồi đó. Người ta đóng cái bếp bằng cây hình chữ nhật, bề ngang khoảng tám tấc, dài khoảng 1,2 mét, dưới chân thì đóng hai cây nằm ngang, vừa có tác dụng làm khung vừa để chất củi khô. Mặt bếp được làm bằng đất bùn trộn rơm rồi phơi khô, là chỗ để hai, ba chiếc lò. Và trên nữa là cái trang nho nhỏ đóng trên cột nhà để thờ ông Táo. Nóc chái bếp bao giờ cũng có mạng nhện và cây lá cũng đen mun vì khói. Gần cái giàn bếp thường một bên là một “cự” củi thật to, một bên là giàn để chén được đóng bằng cây rừng, tre, hay đơn giản hơn là sống lá dừa nước. Mặt giàn chén để úp chén, tô, dĩa và để mấy cái chai, lon đựng mỡ, tỏi, ớt… Phía trên đóng mấy cây đinh trên vách nhà để máng xoong, chảo, rế nồi, vỉ lò… Dưới chân giàn chén thì đặt mấy cái “cà bịch” (được đan bằng lá dừa nước) đựng muối, gạo… Không gian còn lại thì dùng làm chỗ ăn cơm. Có gia đình đóng bàn ăn bằng tre, có gia đình hễ tới bữa ăn là trải chiếc đệm ra rồi cả nhà quây quần ngồi ăn. Họ ăn cơm trong lúc lũ gia súc nhao nhao đòi ăn, có khi gà, vịt, chó nhảy vào mâm cơm…

Chái bếp nhà tôi rất rộng, được ngăn làm đôi. Một phần là dùng để làm buồng ngủ, một phần dùng để nấu ăn. Ðầu tiên thì má tôi ngủ. Khi chị Hai tôi lớn lên thì má tôi lên nhà trên nhường phòng cho chị Hai. Khi chị Hai tôi chết thì căn phòng ấy lại nhường cho em gái tôi. Buồng ngủ ấy rất đơn giản, gồm một chiếc giường tre, một cái rương đựng quần áo… cửa buồng ăn thông ra bếp. Và hễ ai ngủ cái giường ấy là làm chủ cái “giang san” chái bếp. Tuy cuộc sống của gia đình tôi khó khăn quanh năm, nhưng lúc nào tôi cũng thấy cái bếp sạch sẽ, ngăn nắp. Mùa hạn là má tôi đi chặt củi về phơi khô cả một khoảnh sân lớn, sau đó, chất vào một “cự” củi dài đến năm mét, cao hai mét. Số củi này dự trữ đủ cho gia đình đốt lò quanh năm, kể cả giỗ chạp, tết nhất. Còn chị Hai tôi thì chặt lá dừa khô rồi bó lại hàng trăm bó, gác lên trên nóc chái bếp để dành nhóm lửa hay nấu trà khi có khách đến. Thời đó, dùng dầu hỏa để nhóm lửa là hoang phí. Ở quê tôi, mỗi lần đi xem mắt nàng dâu là bà già chồng tương lai ra dò xét cái chái bếp. Hễ bếp núc gọn gàng, sạch sẽ là bà mẹ chồng tương lai cho một điểm rất cao trong những căn cứ để kén dâu.

Cái chái bếp nhà tôi là nơi vương vấn nhất của bốn người phụ nữ thân yêu của đời tôi: má tôi, chị Hai tôi và hai đứa em gái tôi. Tôi nhớ những buổi trưa hè, má tôi ngồi ở ngạch cửa chái bếp chải tóc cho chị Hai tôi. Rồi chị Hai tôi lại xức dầu dừa chải tóc cho tôi và hai đứa em gái tôi trong những buổi chiều 30 Tết. Nhớ những trưa hè oi nồng, má tôi ngồi xay bột nặn bánh lá, chị Hai tôi thì hấp bánh, rồi cả nhà quây quần ngồi ăn. Ðó là cái thuở nghèo khổ, đói bánh đói trái… nên tôi ăn chiếc bánh đơn giản làm từ bột gạo đó mà nghe ngon ngọt làm sao! Và mùi vị của bánh tôi vẫn đeo mang cho đến tận bây giờ.

Chái bếp nhà tôi thật sự rộn ràng và vui đến nức lòng khi nhà có giỗ chạp. Buổi chiều, mấy chị hàng xóm, bạn của chị Hai tôi, kéo đến. Rồi tiếng cười nói râm ran, kẻ xay bột, người đánh trứng, sau đó, ngồi nướng bánh bông lan hay làm mứt dừa… chuẩn bị cho ngày mai đám giỗ. Tối đó, các chị đùa giỡn trong phòng chị Hai tôi rất khuya. Ngày Tết còn vui hơn nữa. Từ 25 Tết, má và chị Hai tôi sửa sang giàn bếp cho sạch, đẹp, rồi lo bánh trái, tôm khô, cá khô… Ðến ngày 30 Tết thì đổi công gói bánh tét, bánh ít. Chiều 30 Tết, má tôi kê ba ông lò ở nhà bếp và đêm đó nấu bánh đến giao thừa. Chúng tôi cứ thức canh nồi bánh chín để nghe má kể chuyện đời xưa và để khi bánh chín thì được cho ăn.

Hơn 30 năm sau, tức là bây giờ, ngôi nhà xưa, chái bếp cũ đã “thay ngôi đổi chủ”. Cái “giang sơn” ấy giờ đây em dâu tôi làm chủ. Người cũ đã không còn, không gian cũng thay đổi. Sau những vụ trúng tôm, em trai tôi đã xây cái bếp bằng gạch, giàn bếp được làm bằng gạch men sáng choang. Mỗi lần tôi về cứ thấy cái bếp ấy lạnh tanh, ăn những bữa cơm không còn ngon như ngày cũ. Hóa ra cái bếp đó đã không còn cái hồn xưa.

Năm tháng cứ trôi nhanh, càng lúc càng xa thăm thẳm, nhưng trong góc lòng tôi vẫn còn tươi nguyên một chái bếp ấm khói lam chiều. Cái chái bếp ấy đã từng tạo tình cảm gia đình trong tôi, và bây giờ nó vẫn cứ tiếp tục gợi thương gợi nhớ. Thương nhớ đến xót xa, bùi ngùi một gia đình nhà quê đã rời khỏi đời sống tôi từ lâu lắm!

PHAN TRUNG NGHĨA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *