Đỗ Chu – Như cây quế giữa rừng

VHSG- Đỗ Chu vào làng văn thuận hơn nhiều so với những tác giả khác cùng trang lứa. Hồi học cấp III trường Hàn Thuyên (Bắc Ninh) đầu những năm 1960, Đỗ Chu đã có bài “Ao làng” in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội – không những là sự kiện và niềm mơ ước của những tác giả trẻ mà ở cái thị xã nhỏ bé yên tĩnh này ai cũng nhắc đến anh với đầy sự thán phục.

Tôi vốn là người ham đọc sách nên cũng hăm hở tìm đọc truyện của anh. Phải thấy rằng, những truyện ngắn “Hương cỏ mật”, “Thung lũng cò”, “Chiến sĩ quân bưu”… thuở ấy của Đỗ Chu chiếm lĩnh tôi bởi chất văn ngọt ngào, sâu lắng, giàu chất thơ: “Ở giữa vườn trám có một cây gạo già, nhưng cò không bao giờ làm tổ trên cây gạo. Cành gạo thưa, gió khẽ lay là rơi mất tổ. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống vườn cò, giữa màu xanh rậm rì của những lùm trám, nổi bật lên màu hoa đỏ rực của gạo. Cây gạo rất đẹp, nhưng đấy là cái đẹp kiêu kỳ. Mùa xuân cây gạo rụng lá và ra hoa, mùa hè hoa rụng để kết quả, và khi sắp sang thu thì cây gạo bắt đầu khoe bông trắng nõn. Cây gạo cứ sống cô đơn, buồn tẻ như thế giữa tiếng đùa bỡn và kháo chuyện ầm ĩ của họ nhà cò trên các ngọn trám xanh ngắt xung quanh”. Những nhân vật như đại uý Bài, anh Khang, cô giáo Nhâm, anh Hiền, Lầm “làng tôi”… sao đẹp và ân nghĩa đến vậy! Cứ ngỡ họ sinh ra là để cho đời sống này tốt hơn lên với nhân ái vị tha!

Nhà văn Đỗ Chu

Vào năm 1966, Bộ Tư lệnh Phòng không – Không quân tổ chức trại viết các gương điển hình trong chiến đấu chống Mỹ. Tôi biết Nguyễn Đình Ảnh, Nguyễn Trí Huân… cũng từ đấy, Đỗ Chu được giao phụ trách trại, viết về liệt sĩ Phan Đăng Cát rồi anh viết truyện ngắn “Phù sa”, làm cuốn sách cùng tên. Trước đó anh có 3 truyện đã in chung cùng hai tác giả khác: Trúc Hà – Văn Ngữ trong tập “Hương cỏ mật”. Nhìn các trang bản thảo ngoặc lên, ngoặc xuống của anh như vẽ bùa mới thấy hết sự lao đông cực nhọc của nghề viết, Không biết do “ma lực” nào ốp vào anh mà Đỗ Chu viết khỏe vậy. Một anh lính trẻ, gày nhàng nhàng, đôi mắt sáng, bàn tay lúc nào cũng ướt đẫm mồ hôi mà sức viết lại dồi dào. Có một nhà văn đã từng nói với tôi: “Đỗ Chu bức xúc thì nói ra mồm, nhưng văn hắn kỹ càng”. Nghe Đỗ Chu thì phải nghe cả hai tai. Đỗ Chu là người có tâm, nói thì đôi khi “tào lao” nhưng những điều anh nói nếu “chịu nghe” thấy cũng chí lý. Nhiều năm gần anh, hiểu anh, tôi cũng học hỏi được nhiều ở nghiệp văn qua các cuộc tiếp xúc trò chuyện. Đỗ Chu viết văn là hướng cho cả cuốn sách sắp in, hướng cho cả một giai đoạn anh quan tâm nên anh viết rất kỹ; khi tập hợp lại thành sách ít khi phải sửa chữa, thêm thắt. Ý thức này xuất hiện trong anh rất sớm. Đỗ Chu nói: “Làm báo là cập nhật, viết văn thì phải… dài dài. Phần lớn ngươi viết văn bây giờ phải viết báo cho nên gì thì gì nhớ là khi ra sách phải có văn chương, không thì vứt…”.

Anh là một nhà văn sớm thành đạt mà cũng không ít trăn trở, vật vã, day dứt băn khoăn. Đỗ Chu không chịu bằng lòng với những gì đã có của mình cho dù những gì đã có của anh vẫn là mơ ước của nhiều người khác. Tôi nhớ hồi anh về quê sống và viết, chủ yếu là viết bút ký, tùy bút… dạo ấy chúng tôi thường đùa vui đấy là những “xã luận mềm”… Gần anh, tôi hiểu anh muốn “có một cái gì khác những cái đã viết”. Mà nào có dễ? Và anh vẫn nghĩ, nghĩ lung là đằng khác. Đến thăm anh, lúc nào cũng thấy anh hút thuốc lào vã, nước điếu vẩy tung tóe trên nền gạch ẩm. Bản thảo thì gạch xóa chằng chịt. Thậm chí, Đỗ Chu còn vo bản thảo vừa viết đêm qua thay đóm hút thuốc. Thức khuya dậy muộn là nếp sinh hoạt của anh… Và bây giờ, Đỗ Chu “nẩy nòi” vẽ nữa chứ! Phòng anh thành “xưởng họa”. Nào bảng mầu, giá vẽ, toan, bút lông, bột màu, màu dầu… lem nhem khắp phòng. Xong đợt vẽ, anh lại múc nước giếng rửa nhà, có khi mất hàng buổi. Các bạn Hà Nội về kêu lên thằng này “đốc chứng” mất rồi! Sự thực là Đỗ Chu vừa ném mầu lên toan mà trong đầu vẫn không nguôi bức xúc với những vấn đề đang từ đời sống hiện tại. Anh thường nói với tôi một cách bình tĩnh: “Nhà văn cũng có những lúc bế tắc, không viết nổi một dòng”. Không viết được thì đi. Chính là lúc ấy anh đã lội vào những cánh đồng và những cánh rừng, sống với nhân dân, cùng mọi người lo toan bàn bạc. Anh về làng thăm đình, thăm chùa, đọc văn bia, câu đối, trò chuyện với các cụ già và trẻ thơ. Lên rừng xuống biển, vào Nam ra Bắc chán thì ra nước ngoài. Anh bảo tôi: “Cứ đi cái đã. Sống cái đã”. Tôi gật gù nghĩ, tài năng cần sự cô đơn, thì bác cứ việc tay nải gió đưa, gầm trời này cũng đủ rộng. Thời gian này tôi thấy anh lẳng lặng đọc một cách hệ thống về nhiều vấn đề, không chỉ đọc có văn học. Một hôm, anh khuân chồng sách của nhà văn Tô Hoài về nhà, sách mang dấu Thư viện Hà Nội. Tôi hỏi: “Anh định đọc hết ông ấy à?”.

Anh trả lời: “Phải mất hàng năm, không thể không đọc một nhà văn như ông này. Đấy là người chép sử biên niên nước nhà, kể từ tiền khởi nghĩa, có sức vóc “cử đỉnh” trong văn học Việt Nam thế kỷ hai mươi. Người ta hay nhắc đến những trang viết về miền núi của Tô Hoài tất nhiên là hay, nhưng thực ra phần chính yếu của ông là viết về Hà Nội trước và sau Cách mạng tháng Tám. Giữa các cụ xuất chúng, ông già này cứ lầm rầm đi, lầm rầm làm việc nhưng sẽ là người về sau cùng, trên vai là một gánh sách có ý nghĩa tập đại thành”. Câu anh nói, tôi tính ra đã là hơn hai mươi lăm năm. Anh im lặng lúc lâu rồi lại nói: “Nhiều anh thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo”.

Hóa ra, những vật vã ấy cũng không uổng phí. Với thời gian, văn Đỗ Chu đời hơn, giản dị hơn. Những trải nghiệm đời sống cứ lan tỏa trong hầu hết các trang viết: “Buồn thay cho một kiếp người, muốn trong sạch nhưng lại quá yếu đuối. Dạo ấy ông đã nằm ở đây và ông đã nghĩ ngợi những gì, ôm ấp những gì? Khi ông nhìn con đường nhỏ nằm vắt qua núi, nhìn dòng sông đang đứng im đằng xa kia, một dòng sông già cỗi như miền đất này, nhìn xuống bãi cát trải ra phẳng lặng, nhìn vào bãi thông giáp làng giờ đây đang bị mưa che khuất, nhìn vào tất cả khung cảnh này, ông ngẫm nghĩ như thế nào, đắng cay như thế nào mà đủ đau buồn đến mức có thể chết như không vậy?” (Mưa tạnh). Vẫn là tiếp tục những suy ngẫm từ một tâm hồn đôn hậu. Bằng lối viết không có chuyện, cứ nhẩn nha như thế mà lặn sâu vào kiếp người, phận người: “Chẳng qua đời mỗi chúng ta cũng giống như con chim gì đang nhảy nhót chấp chới trên ngọn sóng. Chỉ những ai từng lênh đênh ngoài khơi mới gặp loài chim ấy. Chẳng hiểu chúng đậu vào đâu mà sống nổi, và nhờ đâu chúng vẫn cất tiếng hót giữa trùng trùng sóng gió. Kiếp người tưởng vậy mà nào có khác nhau là bao. Tôi vẫn thấy có tiếng hát của em, tiếng gọi của chị trong mỗi ngày sống của mình” (Một loài chim trên sóng).

Sinh thời, nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói: “Đỗ Chu giống như cây quế trong rừng, ai dám bảo cây quế không quý”. Nhưng có lẽ điều đó chỉ là đặc trưng của văn Đỗ Chu thời trẻ. Những năm ấy, Đỗ Chu vẫn chưa có đủ cái sâu sắc, đau đáu trải nghiệm.

Tôi là người may mắn gần gũi anh nhiều năm qua, nếu nói anh là người lười thì có lẽ vừa đúng lại vừa không đúng. Đỗ Chu là người viết chậm và kỹ. Anh tự biết mình là người thừa thãi sự nổi tiếng, lại nữa anh cũng không sợ sự bị quên lãng. Anh bảo: “Viết nhiều là quý, là rất quý nhưng phải hay. Viết nhiều mà không hay thì thà viết ít, thậm chí đừng viết nữa. Dấu hiệu của tài năng còn là ở chỗ tự biết mình đến lúc nào không nên viết nữa. Biết điều thì xin vào ngồi ở một tòa soạn, một nhà xuất bản nào đó, kiếm lấy một cái ghế để yên thân”. Bây giờ sau các tập sách “Mảnh vườn xưa hoang vắng”, “Một loài chim trên sóng”, “Tản mạn trước đèn” và “Chén rượu cạn đáy vò”… đã in trong hai mươi năm trở lại đây, chúng ta thấy anh là người đến với nghề văn sớm nhưng không ít vất vả, không ít vật lộn, học hỏi để có được thành đạt trong nghiệp văn như vậy.

Gần đây, tôi đến thăm Đỗ Chu có nghe anh tâm sự: “Kim này, nhờ giời anh em mình có dăm ba chữ để sống với đời. Chịu khó viết lấy ít trang cho hẳn hoi, mà cũng chớ có quá ảo tưởng về mình, không khéo mà thành vớ vẩn cả, thì khổ”.

Một nhà văn đã xấp xỉ tám mươi có thành đạt trong văn chương mà còn thấy như vậy thì kể cũng là đáng trọng. Ngẫm ra, khả năng tự biết mình, dám vượt mình, là một phẩm chất không thể thiếu với những ai muốn đi xa…

NGUYỄN THANH KIM

One thought on “Đỗ Chu – Như cây quế giữa rừng

  1. Nguyễn Hồng Minh says:

    Thế nào là văn chương?
    Tôi đã có cơ hội tiếp cận với nhà văn Đỗ Chu, mà tôi thường hay gọi là bác, bác Chu. Cái cách bác cháu quen nhau có lẽ là tình cờ hoặc do cùng quê Bắc Ninh, bác Chu ở thị xã, còn tôi ở huyện. Huyện và thị xã cách nhau khoảng 15 cây số. Hồi nhỏ tôi chỉ biết huyện, biết thị trấn Hồ là hết đất. Ở đó có con dốc Hồ, có con phà Hồ mà chưa một lần tôi đặt chân lên, chỉ tới mép bờ con sông Đuống nhìn con nước chảy xuôi, không đục như dòng sông Hồng mà trong. Con phà Hồ kia rồi, nó chạy xuôi dòng rồi đột nhiên dòng khói trắng của dầu hỏa đốt cháy trong động cơ của con thuyền đẩy cái phà, nó bắt đầu nặng nhọc ngược đẩy dòng chảy. Cả con phà lúc này dừng lại, được tì sát và dòng chảy sông Đuống lúc này mới hiện dõ trên mạn phà và đầu phà. Con phà dính sát vào con thuyền nhỏ, lắc lư như lách trên dòng sông ngược tiến dần từ phía hạ nguồn lên bến phà phía bên kia. Con nước tạo thành chữ V to lớn cứ chạy dài loằng ngoằng có chủ đích, có nguyên tắc chảy của dòng sông. Từ bến bên kia phà Hồ tới thị xã, mà giờ đã thành thành phố Bắc Ninh còn khoảng 7km nữa.
    Tôi ở Ninh Xá, ở Trại thương binh I, qua thị trấn Chẹm, có chợ Chẹm mới tới ngã tư Đông Côi, từ ngã tư ấy tới phà Hồ còn khoảng 3 km nữa. Tôi và bác Chu xa nhau là vậy, cách nhau một con sông đã đi vào huyền thoại tư duy thơ Hoàng Cầm và con phà mà dám chắc bác Chu đã đi nhiều lần. Khi học đại học trở về, con phà không còn nữa, thay vào đó là cái cầu Hồ to lớn và thẳng băng, cái dốc Hồ với bao nhiêu kỷ niệm từ thời xưa ăn sâu vào bao tầng lớp nhân dân Thuận Thành, và cả tôi nữa. Những ngày xuân tới dốc Hồ chọn cành đào phai nhiều nụ, ít bông nở về cắm Tết. Ngoài chuyện đó còn có những mái tóc dài tuổi mười sáu, con gái Bắc Ninh thì biết rồi, đã có lần trong câu thơ của tôi làm nói đại khái rằng: ra mua thịt nhưng cứ nhìn vào thịt, lớp áo trắng mỏng giữa trưa hè không phai. Còn Hoàng Cầm thì với tư duy lớn của một nhà thơ lớn lại khác, có lẽ hồi trước, thời của Hoàng Cầm khác với thời của tôi, chỉ có vài ba chục năm thôi mà lên vậy. Hoàng Cầm viết đại khái rằng trong một bài thơ: trong lụa tơ là khối thân hình, đại khái thế, tôi nhớ là nhà thơ chắt lọc ngôn ngữ với tư duy tuyệt vời để miêu tả được cái đẹp của người con gái Bắc Ninh. Còn tôi, mô tả cô gái ấy, là em gái chơi từ tuổi thơ với tôi, con một chú thương binh, mà do vất vả phải có cái nghề bán thịt lợn. Ngồi trên xe lăn mà chọc tiết lợn, cô con gái ấy bán bàn thịt lợn ở cổng Trại tới trưa vẫn chưa hết. Tôi đi mua mà cứ nhìn chằm chằm, trai sinh viên từ thủ đô về mà vẫn còn vậy.
    Lam mam quá mà không vào vấn đề về văn học và tư tưởng văn học của bác Chu. Vì cùng quê, và vì nhà văn hết sức thân thuộc trong bộ dạng một ông già nhanh nhẹn, hoạt bát, hay cười, trong khung mắt kính màu đen, bộ đồ sơ vin, giầy, và cách đi thư thái, ung dung của kẻ sĩ bắt tay ra sau. Tôi và bác nói chuyện nhiều, thân nhau vì hình ảnh chứ tôi có biết bác là gì gì đâu. Sau này có người nói tôi là bám chữ, tức là thấy bác Chu nổi tiếng về chữ nghĩa, văn chương mà tôi bám lấy. Có nhà văn nổi tiếng còn nói và giận nói với tôi câu này: về mà nói chuyện với bác mày, với lão Chu nhà mày. Tôi vinh dự quá, tôi hạnh phúc quá khi có người nổi tiếng ghen với tôi về chuyện này. Và tôi vinh dự quá được làm người nhà của bác Chu cho dù chỉ là trong suy nghĩ của một vài người. Còn việc bám chữ thì tôi chưa từng nghĩ tới. Tôi chẳng cần biết bác Chu nổi tiếng như thế nào trong lần gặp và những lần nói chuyện với nhau ấy.
    Bác có đọc văn chương của tôi. Hôm ấy phó trại viết đã sàng lọc và đưa tới một truyện ngắn để bác Chu đọc. Còn tôi thì đưa trực tiếp, bởi họ ngán văn của tôi rồi, hoặc rằng chẳng cần thiết phải đọc cái thằng này nhiều làm gì. Tôi biết điều đó, tôi hay tự tin về điều đó hoặc tự mình hay hoang tưởng bản thân mình nhiều lắm, có lẽ đó là một đức tính ban đầu và sơ khởi của người viết văn, của kẻ sáng tác chăng?
    Tôi đưa tới bác Chu một truyện ngắn của mình. Bác đọc xong còn chữa cả chính tả cho tôi, nói khi tôi hỏi bác, chắc bác chả đọc đâu, cái cách viết phân thây của cháu này. Có có chứ, bác Chu trả lời. Tao phải đọc chứ, mày sai chính tả quá, mày vứt hết cả cái đoạn đầu đi, viết lại đi tao còn tưởng mày viết về triết học nữa chứ. Tôi cười hà hà, chẳng cười theo điều người ta nói mà là cười theo cái thân quen bác cháu với nhau mà thôi. Tôi thường pha trà, còn bác Chu vừa rít điếu cầy vừa khạc nhổ, tôi chẳng thấy kinh tí nào nhưng hơi ghê ghê. Cái phân thây có được không bác? Tôi hỏi. Được cái gì, mày viết lại đi, đừng có triết lý triết học mà đơng giản thôi, phải có hồn, phải sang trọng, phải đẹp không thì vứt. Cái câu không thì vứt, tôi đọc được cả trong bài viết này về bác Chu. Mày viết cái thằng này Khách khách gì đó à, đoạn sau còn được, nhưng quen cái con bé nào mà lại thế này, tao hiểu tao hiểu. Bác nói như cướp lời tôi, bác toàn thế, nhảy vào tâm trạng người khác để khai thác và phân tích theo cách tư duy văn chương của mình. Nó, đứa con gái nó thế mà mày vẫn tách thân mình mà chăm lo được cho cả nó và cho cả mẹ, nội dung cũng ổn. Mày gọi nhà văn A sang đây. Mày biết A không? Tôi nói biết và tôi có biết nhà văn A mà truyện ngắn kia bác Chu cũng đã đọc. Hôm ấy tôi ngồi im lặng nghe cả buổi bác Chu nói về các viết, nói về nội dung, kỹ thuật và cả những điều nên và không lên với nhà văn A kia. Tôi thấu đạt cả bên trong và bên ngoài, im lặng không can thiệp vào chuyện giữa bác Chu và nhà văn kia. Sự có mặt của tôi, tôi hiểu là tình cơ để tôi học hỏi được nhiều hơn, và từ đó tôi có suy nghĩ của mình về văn chương, về sự thăng thua trong cuộc đời, hay trong một cuộc thi.
    Nói chuyện với chị Y Ban và các nhà văn khác, họ ngạc nhiên khi tôi tuyên bố: viết rồi không cần công bố. Không công bố thì để làm gì, mình phải khẳng định bản thân, khẳng định con đường và sự phát triển của bản thân, góp sức mình vào dòng chảy văn học chứ, phải công bố, ít nhất thỉnh thoảng phải làm mình sống và gắn bó trong dòng chảy ấy. Họ nói rất nhiều, trao đổi với tôi và chị Y Ban cũng cho tôi nhiều lời khuyên. Tôi đã nghĩ ra rồi và tới bây giờ vẫn có quan điểm như vậy. Tôi rất khác, có lẽ có cái khác như bác Chu dù một chút thôi cũng được. Bác Chu viết chậm và viết hay như bài báo này nói và bác cũng nói với tôi thế. Mày viết nhiều làm gì, viết nhiều mà không thành văn chương thì cũng vứt. Viết ít thôi nhưng viết cho nó ra dáng cái anh chàng văn chương một chút, nó có cái gì đó được gọi là văn chương, văn học trong đó, thể hiện được cái sang trọng, tinh chất mới là bản thân mình được, không thì vứt, chẳng làm lên trò trống gì.
    Tôi ghi nhớ những nhận xét và lời nói này như trong bài viết có nhắc tới, đó có phải là một đặc trưng Đỗ Chu? Tôi khẳng định là đúng và tự mình tìm hiểu quan điểm văn chương của bác. Nhưng trước hết tôi trao đổi nốt cái khác của tôi ở lần gặp gỡ ấy. Phải chăng tôi đã hiểu được điều gì đó, đã chiêm nghiệm, đã phóng đạt ra điều gì đó, sau khi nói chuyện nhiều thứ với bác Chu, thấm hiểu được phong cách sống, phong cách nghĩ, và cả chút ít gì đó từ bác Chu về văn chương mà tôi đã nghĩ. Tới đây là sự thành công của cái chung, tức cả tập thể làm lên cái gì mới đáng vì bác Chu nói tìm ra nhà văn thực sự còn khó hơn tìm vàng, tìm kim cương. Tôi không nhụt chí nhưng bản thân tâm tôi luôn nghĩ về cái chung vì thế tôi không cần thiết phải bon chen, phải vật lộn với chính mình, với những suy nghĩ mà những người khác, những nhà văn khác đang ở sung quanh nghĩ và nghi ngờ về tôi. Họ nghi tôi là công an cài cắm vào điều tra tìm hiểu và lục tìm…vv, bởi tôi thiết nghĩ rằng mình hãy dành thời gian ấy để tiếp thu, để học hỏi từng giây từng phút, từng lời, từng cử chỉ, từng suy tư, suy nghĩ của bác Chu của tất cả mọi người còn hơn là đặt nặng sản phẩm viết ra trong lúc này. Tôi đã nghĩ như vậy nên tôi đã chẳng viết gì, hoặc kể cả coi thường văn bản mình viết ra, tôi đưa cả những bản thảo viết tay khi nhà văn Văn Chinh nói viết tay cũng được. Tôi đưa cả tập tới và nhờ anh Nguyễn Tham Thiện Kế (giờ thì tôi viết đúng tên anh rồi), vì anh cùng phòng với nhà văn Văn Chinh, hình như sau đêm đọc cái truyện ngắn cả trăm trang mất ngủ, giờ đang nằm ở phòng chị Y Ban chưa về. Tôi nói và nhờ anh Thiện Kế là đố Văn Chinh đọc được. Anh Thiện Kế nói và hiểu tôi là chơi lại cái thế lực nào đó. Tôi nghĩ mình đúng là trẻ con quá.
    Nhưng đúng thật, khi tâm tư không dành cho việc tạo ra tác phẩm thì đừng có viết. Khi tâm tư chỉ dành cho các mối quan hệ và lo lắng cho những người sung quanh thì chúng ta hãy làm tốt việc đó trước trước khi đặt bút hoặc suy nghĩ viết ra cái gì đó. Tôi đã làm như thế, thực sự thư giãn và thoải mái với những điều và những việc hai bác cháu tôi và bác Đỗ Chu đã làm, nói chuyện, uống nước trà, nghe chim hót, ngắm hoa và phong cảnh, còn cả chìm ngập trong khói thuốc lào của bác Chu nữa, có dịp thì tôi sẽ nói nhiều về điều này hơn, giờ lại là lúc quay về với bản chất văn chương Bác Chu là như thế nào?
    Nói tới đây tôi đâm ra lại mất tự tin, bởi mình đã hiểu nhiều gì đâu mà nói ra, mình đã đọc nhiều về Đỗ Chu đâu mà nhận xét. Thôi đành gác lại vậy, có khi sau này sẽ có cơ hội nghĩ và viết ra hơn, khi ấy chính xác hơn, đúng hơn và hiệu quả hơn. Giờ đây tôi chỉ nói ra quan điểm của mình, suy nghĩ của mình về văn chương, văn học mà thôi. Có người thì từ văn học để trưởng thành, tức là thông qua đọc, thông qua học, thông qua viết văn chương để dăn mình, ban đầu là giải tỏa tâm trạng, sau là học, sau nữa là nghẫm ra sự tình và từ đó chính văn chương của mình dạy mình, chính mình học từ nhân vật của mình và chính mình được thỏa mãn tự do cho những nhân vật ấy sống trong cái tâm khảm của mình mong muốn mà viết ra. Cái sở thích ấy có lẽ là nguyên nhân mà giờ nhiều người viết, và càng nhiều người viết sẽ càng là một dấu hiệu tốt cho một nền văn học, đó là điều kiện ban đầu, cần có đầu tiên.
    Có người nói tôi, à nhà thơ Trần Đăng Khoa nói tôi viết như bài báo. Tôi tìm hiểu ra để hiểu câu nói ấy thế nào và nhận ra sự khác nhau của bài váo và văn học ra sao. Và giờ có nhà văn nói ra và viết ra quan điểm cho rằng hiện tại có hai dạng nhà văn, hai xu hướng viết, hai dòng sông mà nhà văn trôi trên đó (có một bài tôi đã viết về mười cách viết đương đại hiện nay, như là các số nhà ngõ ngách phân bân tách ra vậy), nhưng ở đây sự phân tách không phải là cách viết mà là cách lựa chọn. Tức hai con thuyền ấy hoặc hai nhánh sông ấy một là viết về thực tế, tức như bài báo, dùng cho hiện thực và phản ánh hiện thực để kịp thời với độ nóng, kịp thời với sự đón chờ của bạn đọc, đó có lẽ gọi là văn chương có tính thời sự, tức gần như là làm báo, đương nhiên văn chương và báo là khác nhau chút chút, nhưng hiện thời có sự đan xen chan hòa ít nhất nào đó. Và còn cách thứ hai, nhánh và loại nhà văn thứ hai là viết theo đặt hàng, chạy theo kinh tế, dựa theo một mục đích phi văn chương, ngụy văn học, hoặc chạy theo thị hiếu, tát sóng vào bờ theo gió sương nào đó mà một nhà phê bình nào đó đã nói là “văn chương giả cầy” món gì nhỉ, tôi nhớ không rõ, đại khái là món nổi tiếng của thị chó, đó là món ở trong đây gọi là món nấu, ngoài Bắc gọi là món …, món mận, món gì nhỉ, đại khái nhà phê bình ấy nói rằng là hỗn độn lại tạo thành món đặc chưng ấy, không biết là khen hay là chê nữa, nhưng đó là một thuật ngữ mới. Với tôi thì chẳng theo hai cách dòng sông chia đôi trên mà văn học, văn chương dù thực tế là sự lựa chọn của kẻ viết thì vẫn còn con đường đi khác, vẫn còn dòng chảy khác, đó là như tôi ở trên thầm lặng không côn bố tác phẩm hoặc như người ta nói là hãy sống, hãy thấm, hoặc theo bác Chu là viết ít nhưng nó ra hình hài văn chương, viết nhiều mà chẳng thành cái gì thì hỏng, vứt hết, chẳng làm được gì. Văn học và đặc biết là người sáng tác, riêng chữ sáng tác đã nói lên điều gì đó của văn học, văn chương rồi. Tức là phải có thời gian trễ, tức phải sống hòa tan vào đó, tiêu hóa nó, giữ lại bằng chính tâm hồn mình, tinh thần tư duy của mình, trộn vào hàng nghìn thứ có sẵn trong bản thân, rồi tiếp tục được rèn luyện, tiếp tục được luyện đan tiếp theo bằng hiện tại và tương lại, và rồi sau đó đủ độ chín, khi đó một cơn gió nhẹ mùa xuân, một cánh hoa nở, một chiếc lá vàng rơi, dưới chân sào sạc lá sấu …thì mới bộc phát ra những câu từ chính là bản chất, chính là con người mình …đó mới chính là cái gì đó sáng trong nhất, đẹp đẽ nhất và sang trọng tới mức chấp nhận được theo ý của bác Đỗ Chu.
    Nhánh sông ấy, con đường đi ấy đã bao thế hệ, bao tầng lớp nhà văn, nhà thơ, nhà sáng tác và nghệ sĩ của đất nước ta, và cả trên thế giới đã đi, đang đi và đang còn mãi thì tại sao chúng ta lại không nhắc tới, tại sao lại coi thường.
    Hòa Phong
    Nguyễn Hồng Minh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *