Tây Nguyên và những ký ức văn chương – Văn Công Hùng

VHSG- Chiến thắng Buôn Ma Thuột tháng 3-1975 đã mở màn thắng lợi cho Chiến dịch Tây Nguyên, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng, thúc đẩy nhanh tiến trình của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, với đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 45 năm sau ngày giải phóng, Tây Nguyên đã “thay da đổi thịt” với những bước tiến vượt bậc trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, lịch sử đi qua, nhưng ký ức còn ở lại… Trong những trang sử đó, trong bền bỉ những ký ức hào hùng đó, còn có cả văn chương…

Nhớ cái ngày cuối năm 1981 ấy, tôi, với một ba lô, ba lô đúng nghĩa, có cái chiếu đơn gập phía trên nữa, trong túi ngực là cái quyết định phân công công tác của trường Đại học Tổng hợp Huế, và đi… Lý do để chọn Tây Nguyên cũng hết sức đơn giản: Bốn thằng chơi với nhau, muốn mãi mãi chơi với nhau, kể cả sẽ lấy vợ cùng một ngày, là thề với nhau thế, nên mở bản đồ ra, chọn một tỉnh nào vừa đủ xa để họ nhận một lúc cả bốn đứa, nhưng lại cũng không xa Huế quá, để mỗi năm vài lần về Huế… đập phá… Cuối cùng thì mỗi tôi đeo ba lô lên nhận việc.

Nhà thơ Văn Công Hùng

Mưa trắng trời Huế tiễn tôi đi.

Đeo ba lô ngồi xe đò 3 chặng hết 3 ngày để lên Pleiku cũng chả hiểu Tây Nguyên nó là thế nào. Nhìn ngược lên phía tay phải, cứ thấy xanh rì nhấp nhô mây trắng. Nghĩ, trên ấy người ta sống, đi lại thế nào… Từ Quy Nhơn ngồi trên chiếc xe đò Desoto thịnh hành thời ấy, ngược đường 19 qua đèo An Khê rồi đèo Mang Yang, đi tới đâu thấy núi mở ra tới đấy, rừng mở ra tới đấy, và mây trắng cũng rẽ ra tới đấy… Từ bấy đến nay gần 40 năm trôi qua, hàng vạn lần tôi ngang dọc những con đường Tây Nguyên. Từ đường lớn tới đường làng, từ những con đường lấy Pleiku, làm tâm, đến các con đường ở các tỉnh khác… Nhiều người mới chỉ hình dung lờ mờ chứ chưa hiểu rõ những con đường Tây Nguyên nó chạy ra làm sao… Nhưng phải đến khi một mình một xe rong ruổi, ra Bắc, vào Nam, xuống đồng bằng, ngang dọc trên những con đường mới phát hiện ra nhiều điều thú vị: Những con đường ấy đều gắn với… văn chương…

*

Từ Pleiku, theo đường 14, giờ là con đường rất hiện đại, rất đẹp, có thu phí, xuôi Nam, tới thị trấn Chư Sê của tỉnh Gia Lai, sẽ có một nhánh rẽ xuống đồng bằng Tuy Hòa. Đấy là đường 25, nhưng một thời nó mang tên đường 7, một con đường vô cùng nổi tiếng năm 1975, là con đường mà toàn bộ binh lính ở Kon Tum, Pleiku, cả Đắk Lăk đã “tháo chạy tán loạn”, và quân đoàn 3 Quân đội Nhân Dân Việt Nam đã chọn để chặn, để nó trở thành con đường máu. Giờ không muốn nhắc lại chuyện máu đổ, nhưng thời ấy, nó là như thế. Những bi kịch của cuộc tháo chạy và trận đánh kinh hoàng ấy giờ vẫn còn, ấy là những đứa con của những gia đình di tản bị lạc trong những ngôi làng người Jrai ven đường 7, giờ vẫn còn thấp thoảng đâu đấy. Vẫn còn những gia đình đi tìm con, mà chương trình Như không hề có cuộc chia ly của nhà báo Thu Uyên dạo nào còn giữ rất nhiều hồ sơ. Con đường này, trận chặn đường lịch sử này, từng có 2 cuốn sách nổi tiếng của 2 người lính. Cuốn thứ nhất là Cuộc tháo chạy tán loạn của một viên tình báo Mỹ, tên là Frank Sneep. Và cuốn thứ 2, của một sĩ quan quân đoàn 3, nhà văn Khuất Quang Thụy – Trong cơn gió lốc…

Bây giờ thì con đường 7 kinh hoàng ngày xưa được gọi tên mới là đường 25, nó bắt đầu từ ngã ba Mỹ Thạch (thị trấn Chư Sê- nơi chỉ vài năm nữa sẽ là một thị xã xinh đẹp, hiện đại), rẽ đường 14, xuôi qua Phú Thiện, Phú Bổn (Ayun Pa), Krông Pa, xuống Củng Sơn, Sơn Hòa rồi nhập vào đồng bằng Tuy Hòa. Đấy là con đường êm ả, rợp bóng cây, chủ yếu là cao su và cà phê, xuyên qua mấy đô thị, rồi làng tiếp làng, miên man ngút mắt màu xanh, thắc thỏm hoa gạo, lâng lâng tiếng chiêng và chênh chao những cánh cò trắng phau như những túm bông được trời rắc xuống để làm êm ả những ngút ngàn xanh, những mênh mang bạc và miên man gió. Con đường phẳng lỳ rợp nắng chạy giữa mênh mông cánh đồng Ayun hạ với 13.500 ha lúa nước, một kỳ tích của công trình thủy lợi này khi nó biến cả một vùng cao nguyên khô khát thành đồng bằng trù phú, xuôi về đồng bằng Tuy Hoà mát rượi nước và màu xanh ngút ngàn của lúa với rất nhiều dã quỳ miên man vàng trong cái thắc thỏm cứ sợ màu vàng kia bỗng nhiên trôi mất, và pơ lang nữa, những cây pơ lang cô lẻ nhưng rừng rực lửa bên đường khiến bánh xe cứ tần ngần chậm lại…

Mê mải hai bên đường rẫy xen lẫn ruộng. Những thửa ruộng đẹp như tranh vẽ, thấp thoáng đồng bằng, thấp thoáng những uốn lượn thảo nguyên tạo nên những nét kỷ hà vui mắt. Lãng đãng mây, vi vu gió, khoáng đạt tầm mắt và cái chân thì cứ muốn nhao ra cỏ, muốn lang thang trên cái mênh mang của thảo nguyên ngằn ngặt xanh mà hít mà thở mà vươn vai mà lững thững với gió với nắng với ngút ngát thảo nguyên. Thích nhất là bên đường, thi thoảng gặp một cây pơ lang cô lẻ, bừng bừng đỏ trong nắng, từng bông hoa như những giọt lửa bung lên trời xanh nỗi khao khát của những dồn nén hội hè. Những tháng mùa khô cuối năm thì vàng bung dã quỳ. Mùa nào thức nấy, chưa kể đoạn đèo Chư Sê, chỉ lá cũng đã muôn màu… Đây là khoảng thời gian đẹp nhất ở Tây Nguyên khi mà trời thì lồng lộng xanh, cây thì nôn nao biếc, nắng hổn hển vàng và gió cứ tãi ra, mài mình vào những taman chập trùng dã quỳ cuối mùa khô khấc đang ủ mầm cho những dâng hiến hết mình mùa tới. Cái dáng dã quỳ cuối mùa có vẻ đẹp riêng, nó không viên mãn tràn đầy mà chứa nỗi khát khao hao khuyết, nó rưng rưng nỗi đồng cảm xa xót tiếc nuối nhưng lại cũng rất tự tin trong cái thế ngẩng cao ngạo nghễ và thách thức…

Mỗi khi qua con đường này, trong tôi lại cứ hiện lên cảnh hàng chục vạn con người cùng với xe cộ đồ đạc dồn ứ lại, hốt hoảng cùng cực, tuyệt vọng cùng cực, hoang mang cùng cực… trong tầm súng, tầm pháo. Và những cánh rừng, từng nguyên sinh, từng xanh, từng bí ẩn, dù bây giờ, con đường cũng vẫn uốn lượn giữa làng mạc ruộng đồng…

*

Hồi nhà văn Thế Vũ còn làm thư ký tòa soạn Tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, trong một lần tôi đưa ông từ Pleiku lên Kon Tum, qua cái nơi giáp ranh giữa 2 tỉnh, đột nhiên ông bảo: Nơi này ngày xưa mình đã từng ở. Tôi đã hết sức ngạc nhiên, hỏi lại thì ông kể: Hồi ấy ông là lính “Lao công đào binh”, bị điều lên đây. Và thời gian lên đây, ông đã viết Ngày mới đến Pleiku. Tôi mới “à” lên và hiểu.

Lao công đào binh là những người lính đào ngũ, bị bắt lại, bị đẩy ra tuyến đầu, không được trang bị vũ khí nhưng phải phục vụ chiến tranh, tức là luôn ở chốn hòn tên mũi đạn, là bia chắn đạn, làm tất cả nhưng không được cầm súng. Trong số các nhà văn tôi quen ở khu vực miền Trung Tây Nguyên này, té ra có đến 2 ông nhà văn từng là Lao công đào binh, là ông Thế Vũ này và ông Nguyễn Hoàng Thu. Ông Thế Vũ đã mất khi đang là phó tổng thư ký tòa soạn báo Thanh Niên. Có thể những di chứng chiến tranh, với thân phận là người dưới đáy nhất của cuộc chiến ấy, đã quật đổ ông. Ông Nguyễn Hoàng Thu cũng từng là phóng viên báo Thanh Niên, giờ đang ở Buôn Ma Thuột.

Ông Thế Vũ là tác giả của các tác phẩm Những vòng hoa ngụy tín, Ngày mới đến Pleiku, Người tù ngoan ngoãn, Mưa trên lầu bát giác, Công trường cát bỏng…, ông Nguyễn Hoàng Thu thì nổi tiếng với Người bắt ruồi, sau này có Con đường đêm, Đi qua bóng tối, Krông Ana không đổi dòng…

*

Lấy Pleiku nơi tôi đang ngồi viết bài này làm trục, thì phía Bắc là nhà văn Thế Vũ có mặt, phía Nam là Nguyễn Hoàng Thu, chếch xuống đông một tí là Khuất Quang Thụy. Là tôi nói những nhà văn có liên quan đến biến cố chiến tranh ấy, chứ bây giờ thì nhiều lắm.

Chưa hết, cực Bắc Tây Nguyên đang sừng sững một Rừng xà nu, và xuôi đông là Đất nước đứng lên. Tất cả đều liên quan đến đường 14, 19 và đường 7, tức đường 25…

Hai nhân vật trong hai tác phẩm văn chương nổi tiếng nói trên là cụ Mết và Núp cũng rất lạ. Ấy là các ông nổi tiếng trong văn chương và cả ngoài đời. Nổi tiếng tới mức khi các ông đang sống, nhiều người đinh ninh các ông đã là… liệt sĩ… Chúng tôi đã tìm về được làng Xô Man xưa của cụ Mết. Theo anh Đinh Như Rươn, con trai cả của cụ Mết, thì là làng Xô Man cũ có thể tên thật là Xã Đoàn thuộc Tu Dốp ở cách làng bây giờ đến 70 cây số, và hình như nó đã lẫn đâu đó vào rừng già mà nghe đâu ngay cả khi còn sống thì cụ Mết cũng chưa bao giờ trở lại được nơi ấy kể từ sau năm 1975. Nguyên do là người Tây Nguyên bình thường đã thường xuyên du canh du cư, thay đổi nơi ở và nơi canh tác, thế mà lại còn chiến tranh, giặc giã, còn bao yếu tố khách quan chủ quan khác xảy ra trong gần một thế kỷ biến động kia. Làng mới Xô Man bây giờ mà chúng tôi vào lần này, ở cách thị trấn huyện 30 cây số, nhưng đường đi rất khó, chúng tôi phải xuống xe đi bộ khá xa, có tên là làng Xốp Nghét, xã Xốp, ở đấy còn ba người con của người vợ thứ 2 của cụ Mết, có cháu dâu và cả chắt nội ngoại. Họ sống khá chật vật… Anh Rươn con trai cả cụ Mết nguyên là giám đốc trung tâm y tế huyện, có vợ làm cùng cơ quan là người Thái Bình, cưới nhau từ hồi ngoài Bắc rồi đưa nhau về quê chồng, sinh được ba con trai đều đã có gia đình riêng…

Cụ Mết tên thật là Đinh Môn. Mất năm 2000. Từ thời chiến tranh, ông nổi tiếng đến mức Pháp đã từng mời về giao chức và phong hàm thiếu tướng nhưng ông không về. Ít người biết rằng ông không biết chữ, là trung đội trưởng tuyên truyền vũ trang khi được Pháp mời về phong thiếu tướng. Sau này làm chủ tịch Mặt trận Huyện, ông chỉ biết mỗi một chữ Mết khi ký vào văn bản, còn tất cả ông chỉ truyền đạt bằng… nói. Có nhiều dị bản về việc tại sao ông không được phong anh hùng từ thời cùng với ông Núp dù ông là người tham gia bộ đội trước, có uy tín hơn, và thực sự là người trực tiếp giết được giặc Pháp chứ không chỉ “bắn Pháp chảy máu” như ông Núp. Khi tôi gặp thì anh Rươn, con trai ông cho biết, tỉnh Kon Tum đang làm hồ sơ đề nghị nhà nước phong anh hùng cho ông. Năm 2012, hai năm sau khi mất, ông chính thức được truy phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thôi, muộn còn hơn không, mong rằng ông cũng không lấy thế làm vì, cũng như ông đã sống một cuộc đời bình dị và lặng lẽ cho đến khi Giàng gọi dù nhắc đến tên ông, gần như con dân nước Việt ai cũng phải biết bởi sự chắp cánh của nhà văn Nguyễn Trung Thành…

Còn ông Núp, có lẽ ở Việt Nam không ai không biết ông bởi cái tiểu thuyết Đất nước đứng lên một thời nó “phổ cập” mọi cấp học. Tác giả Rừng xà nu cũng là tác giả Đất nước đứng lên. Làng ông Núp, là cái làng Kông Hoa trong tiểu thuyết ấy, chính là làng S’tơ ngoài đời, nó cách đường 19 chưa đến chục cây. Lịch sử chiến tranh Việt Nam còn phải nhắc đến chiến thắng GM 100. Trận ấy ở ngay dốc Đăk Pơ. Và té ra là, tác giả của Đất nước đứng lên trước khi quen ông Núp thì đã đến đây để điều nghiên trận địa này rồi.

Hồi làm di tích chiến thắng Đăk Pơ, tôi đã tham gia viết cái bia, có đoạn như thế này: “… Với chiến thắng Đak Pơ, quân ta đã bẻ gãy xương sống chiến dịch Atland, tiêu hao 1.100 địch, có 500 chết tại chỗ, 600 bị thương. Bắt sống 800 binh lính, trong đó có quan năm Barroux, chỉ huy GM100. Tịch thu 375 xe cơ giới, có 229 xe còn nguyên vẹn, 1 xe tăng, 18 đại bác 105 li…

Trung đoàn 96 có 147 đồng chí hy sinh, hiện đang được vinh danh và thờ tại đền tưởng niệm này, 80 đồng chí bị thương.

Không chỉ 147 liệt sĩ của trung đoàn 96, nơi đây còn nhiều liệt sĩ của bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân.

Và nhiều người vô danh khác”.

Giờ trên đường 19, xe xuống xe lên, khi qua khu di tích này hay dừng lại thắp hương ở di tích Đăk Pơ.

Lịch sử đi qua, nhưng ký ức còn ở lại…

Và có cả văn chương.

VĂN CÔNG HÙNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *