Thơ Mai Văn Phấn – Cuống nhau và chùm rễ

Trước sân chầu vũ trụ

Ông vua và ngọn cỏ cùng ngồi

Rabindranath Tagore

VHSG- Đọc Mai Văn Phấn tốt nhất là không nên tìm ý, đó là các tập mờ, tâm thái ta thế nào, ký ức ta thế nào, thơ Mai Văn Phấn sẽ chia sẻ với ta thế ấy. Nó có năng lực biến đổi, làm bất yên những hằng thường vô vị và là chỗ cho ý thức thẩm mỹ bám níu.

Nhà thơ Mai Văn Phấn

Đọc xong 400 trang sách, ước khoảng hơn 8.000 câu thơ toàn những mộng mị, cuống nhau, nước, lá và hoa; tôi cũng thành mộng mị, không rõ mình là Mai Văn Phấn biến ra hay ngược lại. Chỉ biết, cần phải cãi lại Phạm Xuân Nguyên rằng, vâng, rất có thể Thánh kinh và các khải thị do Chúa truyền dạy nhất thành bất biến là Ngôi Lời (uyển ngữ/ kỵ húy ngôi Trời?) nhưng thơ Phấn trần thế hơn nhiều, nó chỉ mong được làm cái việc rất cụ thể và xưa cũ, rất xưa cũ: Làm cuống nhau nuôi phôi bào, bào thai và làm rễ cỏ. Ít nhất, tôi có thể dẫn ra 5 câu thơ nói về hai vật thể tối quan trọng này. Nó hiện diện cả trong câu thơ cổ điển, lẫn siêu thực, thậm chí là trong hậu hiện đại nhưng chưa bao giờ nó ngừng tận tụy với tượng trưng như tượng trưng đã xuyên suốt thơ Phấn. Tôi đồng ý với Phạm Xuân Nguyên, “Mai Văn Phấn vật vã lo âu trước sự tha hóa của nhân sinh hiện thời” nhưng xin thêm, Phấn đã nhiều lần vong thân hòng tìm kiếm lại cho nhân sinh cái cuống nhau tinh thần và trên hành trình ấy, ông đã gặp cỏ không chỉ với tư cách ẩn dụ. Có nhẽ không vô tình mà bài Tản mạn về cỏ lại được đặt ở ngay trang đầu của tuyển tập:

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non

Nói chung, vũ trụ với trăng sao đất đai với nước và cỏ thật gần gụi với con người, là một phần khó có thể tách rời của con người là đặc trưng lớn nhất của thế giới nghệ thuật Mai Văn Phấn. Thực ra, nhân hóa là phép tu từ không của riêng ai.Với cư dân trồng lúa nước, nó đã thành một thi pháp: Lúa thì con gái, lúa nghén đòng, lúa đứng cái…nhưng bản thân nó không thể sản sinh ra câu thơ trong bài Sau mùa gặtĐất đai – người đàn ông nằm ngủ.Vâng, anh ta đang ngủ và giấc ngủ trễ tràng gợi ra một đêm hoan lạc, gợi ra sự mệt mỏi sau một quá trình phục vụ cuộc sinh nở vĩ đại của đất đai hay của chính vợ anh ta? Ở bài Mười nén nhang ở Ngã ba Đồng Lộc chúng ta còn thấy cả một sự cỏ cây hóa, trời đất hóa cơ thể con người:

Tháng ngày gương lược về đâu

Chân trời để xõa một mầu cỏ non

(…) Nhang này quặn nỗi đau xưa

Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn

Thế giới nghệ thuật ấy cũng cắt nghĩa, vì sao viết về việc mình sinh ra, Phấn lại viết:

Đặt con lên đất

Lòng sông đau xé thân đêm

Thậm chí, viết về việc vợ sinh, ông cũng mở đầu:

Mặt đất vừa qua phút lâm bồn

và sau mẹ tròn con vuông, không phải “cửa sinh” mà là:

Chân trời phía ấy vừa se lại

Cố nhiên, dù với sự “vong thân” nhưng bằng vào liên tưởng gián tiếp, nỗi đau sinh nở của mẹ vẫn là cấp độ hiểu thứ nhất, rồi mới đến cấp độ của nỗi đau – cấp độ thiên nhiên. Cũng vậy, với độ phồn sinh của bầu vú phi phàm:

Vòm ngực thả trái cây sắp rụng

Lũ cuốn, đá lở, sạt đồi

Con thú giật tung giây trói

Nghiền không gian thành sữa thơm dưỡng chất

Bầu vú cương lên căng mọng

Nuôi nấng trẻ thơ trên khắp thế gian

Cho phép chúng ta liên tưởng đến cấp độ cuối cùng, ấy là cuống nhau tinh thần của nhân loại?

Có một bí ẩn trong gia tài thơ Phấn, ấy là tính dục chỉ có thể cảm thấy chứ không nhìn thấy. Dấu hiệu để cảm nhận có lẽ là đòi hỏi công khai như một điều kiện tiên quyết của tình yêu nhục cảm, ấy là sự thanh sạch như thiên nhiên trong ái ân được trở lại nhiều lần trong thơ ông. Và từ đó những đứa trẻ của tương lai sẽ ra đời; sẽ cứu vãn sự già nua bệnh tật xơ vữa của nhân sinh mà Phấn luôn luôn khắc khoải:

Tiếng em rồi tiếng con cười

Rộng thêm căn phòng ta ở

Anh hồi sinh tuổi ngây thơ

mà Phấn luôn khát vọng:

Con đang khai hoa đậu quả

Ngự trên ngực mẹ ngực cha

Cùng với những đứa trẻ được sinh ra trong thanh sạch, hồn nhiên như cây cỏ; cũng cần một điều kiện nữa, một sự đi bước nữa của văn minh nhân loại, ấy là văn minh tâm học mới được hình thành như một giả thuyết nhưng đã hằng thường trong thế giới nghệ thuật Mai Văn Phấn:

Đã hé mở cánh cửa nền văn minh tâm học, những linh hồn tâm hồn có đủ lương năng, lương tri rời thể xác tìm nhau. Vượt gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng, trái tim hiền lành rung động các vì sao.

Giữa thiên nhiên ngỡ trong lòng mẹ, giây phút bình yên cho ta thêm lặng lẽ, tạm biệt những sắc nhọn tinh khôn để cảm nhận mình đẹp như bào thai, mới như phôi thai

Đó chính là một không gian tinh thần, nó sẽ giãn ra để nhường chỗ cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp:

Muôn năm con người. Muôn năm thiên nhiên

Tôi tin chắc đó là cuống nhau tinh thần của nhân loại, chẳng những nó cho phép hình dung một tương lai sáng sủa mà còn khả dĩ chữa lành những sang chấn của loài người sau thế kỷ đầy thù hận.

Dù sao thì thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn cũng đẹp và ít nhất, nó cho phép Phấn tả việc giao hoan, tả sự sinh thành thật sống động nhưng thanh thoát và sang cả, như bài Giáng sinh và Bài ca buổi sớm. Hai câu này trích từ bài sau:

Từng giọt mát lành thấm nhuần trong đất

Tươi từ môi anh đến gót chân em

Mai Văn Phấn chọn vào tuyển tập hai trường ca: Người cùng thời và Hình đám cỏ chưa kể hai bài thơ dài: Những bông hoa mùa thu và Cửa Mẫu. Trong các trả lời phỏng vấn, Mai Văn Phấn nói hành trình cách tân thơ là quá trình vùng thoát khỏi bãi lầy của những trường phái nghệ thuật. Các dấu vết vùng quẫy còn khá nhiều trong Người cùng thời nhưng chính nó làm nên thành công của trường ca. Ở đây có một nghịch lý, cả hai trường ca của Phấn đều không có nhân vật trữ tình vốn được coi là xương sống của loại hình này; ở bài thơ dài Cửa Mẫu thì có nhưng Mẫu lại là nhân vật tượng trưng nên chỉ thấp thoáng ở giá đồng chầu văn chứ không hiện diện. Không biết chuyên gia trường ca là nhà thơ Đỗ Quyên sẽ nói sao về điều này, nhưng tôi trộm nghĩ, chính nhờ không có cái trồi lên át giọng nên ta có thể nghe thấu niềm khắc khoải đến ngột ngạt của nhà thơ trước sự suy thoái của nhân tính, của môi trường được giấu rất kỹ:

Và cánh đồng nín lặng qua đêm

Vâng, làm sao có thể nói rõ với con người về thế kỷ anh ta vừa sống có rất nhiều thô sơ nhầm lẫn. Ở đây thì nhân danh cái mới để đốt đền thu chuông giữ mõ, làm chiến tranh, làm chiến tranh nhân danh bảo vệ nhân quyền, làm chiến tranh nhân danh sắc tộc và tôn giáo – chiến tranh lâu dài đến mức làm vương mùi thuốc súng trong phòng máy lạnh của hôm nay; ở kia thì nặc danh như có mặt quỷ nấp sau mặt người để rồi:

Mặt quỷ thì run mặt người thì buồn

Trường ca cho tôi một khái luận: Trong thực trạng xói mòn nhân tính, cần sự dũng cảm hơn là đầu óc thông minh. Dũng cảm và trầm tĩnh trường kỳ thậm chí là hạt nhân của cuộc chiến chống xói mòn nhân tính. Bởi vì trẻ hóa, hồn nhiên lại chính là quá trình lột xác: Giọng nói rất gần/ Dưới bình minh con hãy lột xác! (Cửa Mẫu) Đó là một quyết tâm đau đớn mà không phải không có nỗi phân vân:

Muốn dừng lại bên đường

Nằm lên cỏ

Trời cao mong leo lên cây

Nhìn xuống tiếc nuối cát

Thèm trộn vào cát

Giây phút phân vân anh nằm bất động

Mặc sương sớm ùa đến

Sóng mặn và nắng ùa đến

Kéo căng anh cỗ xe ngựa phanh thây

(Hình đám cỏ)

Ở Người cùng thời cuộc chiến còn ác liệt hơn. Đau đớn nhất là phải nhìn quá khứ như một nỗi đau và phải đốt nó lên, như Phấn trong lời đề từ cho trường ca đã viết: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua. Và dẫu biết con đường phía trước là nhọc nhằn và hết sức hiểm nguy mà không thể khác, không có con đường nào khác:

Người cùng thời nhìn rõ đường đi nhờ những nỗi đau hắt sáng sau lưng, hắt sáng gương mặt người đằm thắm…

Quyền sở hữu ở bên ngoài Thiện – Ác. Ấy là điều những cuộc chiến tranh học được, để chính trị là cái nôi đạo đức cho cái thiện sinh ra…

…Hạt giống để dành được gieo vãi. Ta cũng gieo vãi vầng trán ta vào chân mây hy vọng. Như tháng ba ra đồng trong tiếng sấm. Bùn đất dưới chân làm ta tươi tốt. Xin học cách kết hạt của mùa màng trong mỗi nguồn cơn

Vâng, trong cái hỗn độn (hậu hiện đại) của sự cấu trúc lại còn đậm đặc trong chương VII, có tên là Mail cho em thi thoảng người đọc lại nhặt được những hạt bụi lấp lánh: …KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU BỖNG GIỌT NÀY THẤY GIỌT KIA LÀ MẸ TRÊN VẦNG TRÁN MÊNH MÔNG…Xin lưu ý rằng, trong một thi cảnh khác, Mai Văn Phấn gọi những hạt bụi là mẹ của vạn vật.

Và như thế, hành trình trở về của Mai Văn Phấn là bộ đôi song bước. Ở bình diện thứ nhất, quá trình vùng thoát khỏi những bãi lầy của các trường phái nghệ thuật để trở về với truyền thống, với cổ điển. Cố nhiên, cái truyền thống bây giờ đã khác và về điểm này thì Phạm Xuân Nguyên có lý. Và Nguyên diễn đạt rất hay: “Cái truyền thống đã ngấm chất hiện đại (…) Giống như ta mang giọng của làng quê đi khắp năm châu bốn biển, đã nói nhiều thứ tiếng, khi trở lại làng giọng ta nghe như không đổi mà thực ra là đã đổi đến tưởng như không đổi.” Trong khúc thứ IX của Cửa Mẫu, lời thơ như được chép từ một giá đồng nào đó tại phủ Giầy:

trống chiêng bát bửu

mở hội long đình

múa hát cao xanh

công đồng tứ phủ

Ở bình diện thứ hai, bình diện nội dung, sự trở về với bản thể hồn nhiên, trở về với bản lai diện mục của nhân sinh diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt hơn nhiều. Trong tuyển thơ, Mai Văn Phấn nhiều lần làm lễ thanh tẩy; ông có hẳn một bài riêng, bài Tắm đầu năm được viết trang trọng như một nghi lễ. Nhưng đột ngột ông về hẳn với cội nguồn thờ Mẫu của văn hóa Việt và chính ở đây, quá trình lột xác (hay thanh tẩy hay tắm gội) được diễn ra trong nhạc cảm chầu văn hầu đồng và chính nó như được tương tác bởi tâm linh để thành đa bội nghệ thuật:

Hoa quả

Lửa đèn

Âm dương chén nước

Như trườn qua cơn chạng vạng

Rút dần cơ thể qua lớp vỏ bọc

Con hớp những giọt sương

Đống vỏ bọc xám xịt chất cao

Đã xa tầm tay với

Đoàn người dìu nhau bấy bớt

Cuối bình minh

Suy cho cùng, “bãi lầy trường phái”là cách nói khiêm nhường của kẻ đã qua cầu, chứ “bốn mươi năm ấy có biết bao nỗi niềm” cả phấn hứng, hạnh phúc lẫn đắng cay cô độc. Đây là thời kỳ Phấn tự cử mình, tự bỏ kinh phí đi thi Olempic thơ nhân loại và trên hành trình ấy, không ít lần lá cờ (thơ) Việt Nam đã được kéo lên. Xin chúc mừng. Nhưng chúc mừng nồng nhiệt hơn là sự trở về với cội nguồn. Ở đây, ở tận cùng của cội nguồn, ông đã gặp văn minh tâm học mà hạt nhân của nó là tâm linh, là cái mà nhân loại đang dò dẫm bước tới.

Xin dành những dòng cuối cho thơ lẻ Mai Văn Phấn từng neo đậu trong ký ức tôi. Giống như truyện ngắn, thơ lẻ là những lát cắt của cảm xúc, nó không có chỗ cho che chắn rào đón; nó là “bầu trời cần mái che.”

Nhưng ở đây có một lỗ thủng của lý thuyết trở về, nó làm nên nghịch lý cần bàn thảo.

Chùm bài Tản mạn về cỏ, Trương Chi, Lơ lửng, Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc và có thể kể thêm Chiếc lá, Em và biển, Đà Lạt thì thầm viết trước 1995 có được cái trong vắt của Đường thi nhưng cũng thấp thoáng tượng trưng:

Trăng gầy mòn đến mày ngài

Thuyền ta qua nổi đêm dài này không

và siêu thực:

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non

Nhưng ngay cả thời trong trẻo ấy, Phấn đã cảm nhận được thảm họa tha hóa của văn minh. Đây là câu kết của bài Không đề I:

Gọi tìm tôi thuở dại khờ

Về thương tôi của bây giờ tinh khôn

Chùm bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Đúng vậy, Tắm đầu năm, Anh tôi, Quay theo mái nhà …tác giả vẫn trung thành với siêu thực và hậu hiện đại nhưng…vẫn hay. Nếu siêu thực đã hay thì còn cần gì phải trở về? Tôi không hy vọng thuyết phục các bạn, ở đây xin tạm đưa ra một giả thuyết. Tượng trưng và siêu thực chưa bao giờ là dòng chủ lưu ở xứ sở này, nhưng ngay từ xa xưa, nó đã có trong phép bút của tiền nhân chúng ta. Nhân vật “khách” trong bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ được hiểu như là nhà thơ vừa gặp một bóng ma, bóng ma ấy cao thước sáu và để lại dư âm mùi tử khí. Thì trong các truyện ngắn của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ma nhiều hơn. Và ở Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chẳng nhan nhản bút pháp tượng trưng đó ư?

Vả lại, tôi tin nhà nghiên cứu Nguyễn Quân: “Mở đầu là vĩ nhân, còn lại là thể loại.” Khi xoay triết luận theo chiều khác, chúng ta có “mở đầu là vĩ nhân, còn lại là trào lưu”, xoay nữa, chúng ta sẽ được hệ quả “mọi trào lưu khi lên đến đỉnh, đến hay thì đều gặp nhau.” Tôi không nói Mai Văn Phấn là vĩ nhân, tôi muốn nói trong các trào lưu mà Phấn dấn thân, ông đều đi đến tận cùng và vì vậy đều để lại thành tựu. Thơ Mai Văn Phấn cũng do đó mà phong phú, đa dạng.

Đặc biệt là các tập Hôm sau, Và đột nhiên gió thổi. Ấy là khi Phấn còn múa bút dưới ngôi sao chổi siêu thực và hậu hiện đại. Có nhiều bài lâm vào trạng thái bụi thiên hà, tắc tị và bí hiểm; nhưng cũng có nhiều bài vụt sáng. Tôi từng viết: Sinh thời, nhà văn Sao Mai nói: “Thơ có 4 cấp độ: từ, ý, khí, thế. Như Chế Lan Viên đã thoát khỏi từ, giầu ý tứ, khí kém nhưng thế nhiều bài đã đến.” Như Mai Văn Phấn đã không còn phải loay hoay với vần điệu, tu từ và thật thú vị, thoát được là tự do. Cảm giác tự do ở lối nói tung tẩy, nói như không ngụ ý gì, như bất chợt. Cũng ở tâm thức ngột ngạt dị ứng với những cũ kỹ ẩm mốc, những modern hot đến hời hợt, đến vô tình mà nhặng xị. Mai Văn Phấn hiện đại mà không có đồng minh hiện đại, chút cổ điển tinh tế chỉ còn sót lại ở nhạc cảm toàn bài cũng bị thói đọc thơ cổ điển lướt qua mất; ông đành âm thầm đơn độc nhưng bạo liệt với khát vọng cách tân mình. Đọc Mai Văn Phấn tốt nhất là không nên tìm ý, đó là các tập mờ, tâm thái ta thế nào, ký ức ta thế nào, thơ Mai Văn Phấn sẽ chia sẻ với ta thế ấy. Nó có năng lực biến đổi, làm bất yên những hằng thường vô vị và là chỗ cho ý thức thẩm mỹ bám níu. Có bài đã đạt đến khí, như Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, đọc xong lạnh đến gai người mà không rõ vì đâu…

VĂN CHINH

2 thoughts on “Thơ Mai Văn Phấn – Cuống nhau và chùm rễ

  1. Nguyễn Hồng Minh says:

    Sâu và nông
    Bài viết của nhà văn Văn Chinh đã đi đến các chiều sâu và đào sâu, cũng như phóng tầm rất rộng. Có lúc sâu tới một chiều thức hệ tư duy của Nhà thơ, có lúc rộng bằng việc liên kết với vua tiểu thuyết để trao đổi và hỏi han đánh giá thế nào. Không phải bàn cãi về cảm thơ và sự hiểu biết cũng như ngòi bút phê bình cao của nhà văn Văn Chinh nữa. Tôi đọc cảm thấy mở mang và cảm nhận được các cái đẹp về nhiều phương diện của những chắt lọc thơ được Nhà văn trích lục, đưa dẫn. Toàn là những tiêu điểm đáng giá, xác thực nổi bật mà từ đó đi theo là các văn bản có chiều sâu của những trái tim, bộ óc sâu và rộng. Ở đây dựa vào các câu thơ trích lục dẫn của Nhà văn mà tôi chỉ suy nghĩ theo một chiều nông của nó: Tức là chỉ nhìn nhận thông qua tâm hồn, tư duy, cách làm của nhà thơ Mai Văn Phấn ngay tại lúc làm những câu thơ điển hình, những đặc trưng nhất của thơ mình ấy. Tôi gọi việc làm suy diễn này của tôi là nông bởi nó đúng với tôi và với lối suy diễn của tôi còn thực tế thì vẫn chờ bạn đọc đọc và cảm nhận – tất cả là niềm vui và sự hứng khởi với thơ mà thôi.
    Câu trích đầu tiên: Ghé môi vào miệng thời gian/Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non. Khi làm câu thơ này nhà thơ đã hoán đổi môi người với miệng thời gian, với hố sâu của hố sâu. Môi với môi là môi hôn. Còn miệng thì tít nói là miệng hôn. Thường là miệng hố, hố đen. Ghé môi vào hút, thường là như thế. Con quái vật đưa môi mình vào hô đen hút hết mọi thứ! Ghé môi dường như chỉ là bất chợt không theo kế hoạch, tức công việc này không thường xuyên. Lúc làm câu này Nhà thơ không tính kỹ như tôi là nghĩ ra quái vật và nghĩ ra hố đen, chỉ đơn giản là thay đổi, thay đổi cái gì để cho nó mới hơn thôi, thay vì nói ghé môi vào miệng em hôn, thì Nhà thơ sẽ không nói thắng như thế mà ghé môi vào miệng thời gian. Miệng thời gian nó nghĩa lý hơn nhiều là môi em, là miệng em thì hơi kinh. Mà viết câu thơ ra mà người đọc kinh thì thôi còn gì là thơ nữa. Nhà thơ chỉ hợp thức hóa suy nghĩ của mình và hợp với suy diễn của người thưởng thức thơ nữa, cái mới cũng từ đó sinh ra chứ thực tế nhà thơ không định hình trước được là miệng hố đen, và ở đó không có thời gian, miệng thời gian từ đó sinh ra trước, không phải vậy, miệng thời gian là cái sinh ra sau. Nhà thơ viết ghé môi được viết ra trước với tâm trạng trữ tình, là môi hôn môi, hai từ môi đành đổi thành môi và miệng, ghé môi vào miệng em thôi, nhưng mà không tri thức và tư duy nhà thơ với khả năng đã am hiểu về vô hình thì sức liên tưởng của nhà thơ không bao giờ dừng lại ở miệng thế gian, miệng của thế giới đàn bà, mà vẫn biết miệng ấy rất sâu và không lường hết được. Miệng của em ấy chính là các lời ca dao được truyền miệng, xâm nhập vào không phải là dễ mà chỉ ghé vào cái truyền tải thời gian ấy thôi, vì thế cuối cùng nhà thơ lựa chọn ghé môi vào miệng thời gian. Xong việc ấy, óc liên tưởng phía trong tư duy ở trên bộ não của nhà thơ sẽ không thả hồn đi đâu mà hồn thơ, tinh thần thơ đi ra từ chính câu đầu tiên đã hoàn thành ấy. Môi, miệng là xác thì phần còn thiếu là hơi thở thì nó mới tạo thành vấn đề và sự đầy đủ được. Người đọc sẽ không hoang mang mà vẫn có sự tiếp nối. Thơ bây giờ là giảng giải vấn đề và mang tới sự nhận dạng tương thích của người đọc. Cách hành thơ này là cách truyền thống, các câu ngữ và hình ảnh có liên quan tới nhau mật thiết chứ không quá xa để tạo ra sự liên tưởng nào của người đọc mà dẫn dụ bằng những liên quan thông thường nhất. Hơi thở thì như thế nào trong cái miệng thời gian ấy. Người làm thơ hay là óc người làm thơ tự hỏi mình, nó sẽ ập lại là gì? Nếu là tâm nhà thơ tốt thì nó sẽ ập lại tốt, nếu tinh thần và sức mạnh của tư duy nhà thơ đẹp thì nó sẽ ập lại đẹp, các ngôn ngữ nghĩ ra được từ hơi thở phả ra sẽ đẹp và thể hiện được con người nhà thơ là như thế nào. Giả sử nếu tôi làm hoặc bạn làm thì bạn nghĩ hơi thở ấy ra sao. Đừng nói ra hơi thở của mình mà đây là sức tưởng tượng và mong muốn hơi thở của cái hôn mà mình đã dành cho một người tình, một cô gái, một người đàn ông mà mình yêu. Sự mong muốn ấy trước hết từ tâm tính của chúng ta, và áp đặt định hình vào hình ảnh hơi thở mà mình nhận lại khi ghé môi vào miệng ấy. Đương nhiên đang yêu, đang có tâm ý đẹp thì hơi thở ấy phải là hình ảnh đẹp, non tơ, mướt mát, miên man, ngọt ngào…nếu bạn ác, tâm xấu, ghét người phụ nữ, đàn ông mà mình hôn thì sẽ thành ra hơi thở trong cái miệng ấy mà chính môi mình hít vào trong phổi, một chút lệch lên mũi để ngửi hương, vị chạm vào lưỡi, mắt có thể thấy được màu sắc sau đó…nếu tâm thái không ổn thì hơi hướng đó cũng sẽ không ổn.
    Cỏ non là hình ảnh mơn mởn, là màu sắc tươi xinh, là khả năng sinh sôi ra cảm xúc. Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non. Tôi quên mất câu đầu tiên rồi, và hơi thở này là chung cho cả hai người, người ghé môi và miệng thời gian. Miệng mình và miệng người, mà giờ không phải là người mà là miệng thiên nhiên. Hơi thở sinh ra, hơi thở thở ra thì đương nhiên và thường thường trong miệng, qua môi mỗi người. Nhà thơ lúc này bằng tư duy lại cũng suy nghĩ và lựa chọn từ ngữ – thế thì thường quá, thế thì chưa đạt, mọi từ ngữ từ thở ra, từ mang tới, được sinh ra hoặc gây ra từ hơi thở thì không mà là hơi thở nuôi lớn cái gì đó, nuôi lớn cái tươi đẹp đang suy nghĩ ấy, cái cỏ non ấy và rồi nó phải là mọc ra, mọc ra chứ không phải là đưa tới, ở đây là bắt nguồn chứ không phải là tới và tạo ra cái cảm giác thở ra và mang tới cái ngon lành, mát mẻ đó mà chính nó là dinh dưỡng, là cái cơ cấu để mọc ra, sâu bên dưới, sâu bên trong tâm hồn, trong tinh thần mọc ra chứ không là phương tiện truyền đi thông thường. Hơi thở giờ không là phương tiện mà là cái chính, nếu chỉ có miệng có môi tức là xác, thì hơi thở là hồn, là tinh thần thì nó đã không phải là thứ truyền tải mà là thứ quyết định. Nhà thơ chọn như vậy và đắc ý với bản thân mình. Câu thơ được hoàn chỉnh và tới với người đọc. Đó là cách hoàn thành câu thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn. Còn tôi và các bạn thì như thế nào? đã ra câu thơ thứ hai của mình chưa?
    Đó mới là câu trích dẫn đầu tiên (trừ câu của Ta-gô). Tôi sẽ quay lại phân tích tiếp các câu thơ trích sau khi có kết quả của bản thân và của các bạn nhé!
    Hòa Phong.

  2. Nguyễn Hồng Minh says:

    Cỏ non khác nhau
    Sẽ có bạn không đồng ý với tôi về bài viết Sâu và nông ở trên. Cũng bình thường thôi bởi tôi xuất phát và phân tích kết cấu để hình thành ý. Mà trong bài viết của nhà văn Văn Chinh có nói tới ngữ, ý, chí, thần gì đó, ở đây tôi ở mức nông nhất tức đi từ Nhà thơ tới ngữ, rồi giờ mới tới ý.
    Sau khi nhà thơ hình thành hai câu thơ từ ngôn ngữ của mình thì mới nhận thấy là nó có ý, đồng ý cho nó tồn tại như là một chỉnh thể. Giờ đây đọc hai câu thơ lên nhà thơ Mai Văn Phấn nhận ra là có ý của mình và người đọc cũng bắt được cái ý ấy của ông. Và khi tôi hỏi bản thân và các bạn làm câu thứ hai về hơi thở tức là chúng ta đang ở mức ngôn ngữ chứ chưa hoàn thành ý được. Giờ nếu hoàn thành ý thì tôi và các bạn có thể làm nhiều câu thơ tương tự như hai câu thơ của nhà thơ Mai Văn Phân này. Và như thế tôi và các bạn đang đạo thơ của Nhà thơ ấy mà cho dù không copy một ngữ nào mà chỉ copy ý mà thôi.
    Ví dụ thay vì môi chúng ta dùng mắt: mở mắt, hay là góp mặt vào dòng chảy cuộc đời, hoặc mở mắt soi vào dòng thời gian, cho tinh thành trở thành toàn là cổ tích; đại khái thế. Tức là mở mắt ra, xuất phát một cuộc sống để nhập vào dòng đời sống, xuất phát từ cái nhìn đầu tiên vào dòng thời gian để rồi nhận lại là tinh thần, là tâm hồn tươi đẹp và cổ tích.
    Hay như, chạm tay vào dòng thời gian, đưa tay vào khúc nhạc đời, cho cảm xúc đơm ra toàn nụ hoa, hoặc như: góp chân vào con đường thời gian, cho con người đi tới mọi nơi tuyệt vời; góp gót chân vào con đường, rồi thân thể hòa vào thảo nguyên. Ngôn ngữ của tôi không tốt, nhưng tất cả các câu thơ trên nếu được làm ra thì đó là chôm ý của Mai Văn Phấn. Tức là đạo ý thơ, tức là đạo thơ! cho dù không đạo một từ nào ở trong hai câu thơ trên.
    Rất may “cỏ non” của Ta-gor khác với “cỏ non” của Mai Văn Phấn. Hay nói cách khác cỏ Phấn khác cỏ Ta-gor cho nên không gọi là đạo thơ của Ta-gor hay của Nhà thơ MV Phấn được. Như thế chúng ta hiểu hai cái cỏ non này không có nghĩa giống nhau. Còn khi chúng ta mượn ý, thì đã là đạo ý mất rồi.
    Tức là khi làm thơ, ngữ hoàn thành trước và rồi ý mới hoàn thiện đi theo sau. Khi chúng ta hình thành ý rồi thì ngữ khó hình thành theo vì hay bị gò bó mà không tạo ra thơ được chỉ tạo ra câu văn. Nhà văn Văn Chính hiểu điều này hơn ai hết. Ông có thể biết ý rất nhiều những không thể làm ra thơ! Tôi có thể võ đoán điều này, nhưng biết ra là ông viết văn rất tốt, làm văn bản cũng rất tốt vì lẽ ông biết được ý và hiểu sâu được ý. Ngữ ông cũng có nhưng ngữ của văn bản, ngữ của văn xuôi khác với ngữ của thơ và vì vậy nếu tạo ý trước trong lúc làm thơ thì thành ra viết văn. Viết văn là có ý trước, và các ngoại cảnh, trải nghiệm, trải đời, nguyên tắc tâm trạng ấn sâu xuống rồi bất lên thành ngữ để chuyển ý đó, đó chính là nhà văn. Còn nhà thơ thì ngược lại, ý hình thành sau ngữ. Nhà thơ dùng trí, dùng thần để tạo ngữ sau đó mới sinh ý. Do vậy nhà thơ có tinh thần mở, có trí vượt thời nào đó mà không thể cố gắng mà viết ra được nếu không có ngữ cảnh nào đó. Và chờ cho ngữ cảnh ấy tới, nhà thơ mới bổ ngữ và đặt các con chữ theo cách ngữ cảnh trí và thần ấy để rồi các ngữ hình thành câu và tạo ra ý. Đó chính là nguyên tắc và sự hành văn của nhà thơ.
    Đoạn trích thơ thứ hai của nhà văn Văn Chinh: Tháng ngày gương lược về đâu/Chân trời để xõa một mầu cỏ non
    (…) Nhang này quặn nỗi đau xưa/Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn
    Cỏ non này khác với hai cỏ non đề cập ở trên. Ở đây tôi không phân tích nghĩa của cỏ non mà chỉ khẳng định bước đầu là không ai đạo ai. Và giờ tôi phân tích cái nông của người làm thơ bắt đầu với ngữ đầu tiên về Ngã ba Đồng Lộc: nghĩ tới ngã ba Đồng Lộc là mọi người nghĩ tới mười cô gái thanh niên xung phong tươi trẻ, tuổi xuân, con gái, phụ nữ mà gương lược là cái suy nghĩ tương đồng đầu tiên về ngữ. Cách làm hai câu thơ Tháng ngày gương lược về đâu/Chân trời để xõa một mầu cỏ non, khác với hai câu thơ môi, miệng hơi thở ở trên. Ở đây là thơ liên tưởng, thơ tâm trạng, nhà thơ không là mình nữa mà nhà thơ liên tưởng mình là những cô gái trẻ, miên man thiếu nữ trong rừng Trường Sơn, tại ngã ba Đồng Lộc ấy để mà viết. Cái tâm trạng ban đầu chỉ lấy hình ảnh phụ nữ là gương lược, có phải rằng tháng ngày cung súng về đâu đâu mà là gương lược, có phải là dìu búa, cung súng đặc trưng của đàn ông đâu. Thế là hình ảnh liên tưởng ban đầu tiên là gương lược hiện ra và tháng ngày ấy, tâm trạng của những người ấy là như thế nào? Mai Văn Phấn hiểu rõ trạng thái của những người thanh niên ở tiền tuyến ấy, không biết hôm nay ra sao chứ chưa nói tới ngày mai, và rồi ngày mai các bạn sẽ như thế nào? không lẽ câu thơ lại như vậy! Mai Văn Phấn nghĩ không được rồi, viết thế thì ai chả viết được, các cô ngày mai sẽ như thế nào được chuyển thành ngày mai các cô ra sao, rồi thành tháng ngày con gái thay đổi, ngày tháng gương lược đi đâu, về đâu, rồi ngày tháng gương lược về đâu, tư duy nhà thơ lựa chọn rất nhanh, đặt ngữ xuống và tải được cái lỗi lo và sự hiểu đời, hiểu được nỗi lo trong tâm trí ngay lúc đó của gương lược, của các cô gái thanh niên xung phong ấy. Sau đó dừng lại, nhà thơ nghĩ tiếp, không thể bỏ lửng được, rừng còn nhiều thì chân trời sẽ không thấy bởi rừng che khuất, chỉ màu tối trong rừng về sớm hơn thôi, nhưng ở ngã ba Đồng Lộc ấy chỉ có những con đường bom đạn, rừng bị tàn phá, những cánh đồi hất lại những ánh nắng cuối cùng và chân trời hiện ra. À, chân trời kia là gì, tâm trạng của các cô gái về đâu ấy có khi nào chân trời tỏ được, và tâm trạng ấy chạy tới chân trời xa kia. Bây giờ chưa hình thành ý được, nếu nhà văn sẽ tả được ngay và nghĩ tới tả để làm gì, còn nhà thơ thì đi tìm lối thoát cho tâm trạng chứ không phải diễn nghĩa cho tâm trạng ấy trải ra văn bản. Giờ đây tâm trạng không nằm im, gương lược không thể trơ vơ về đâu bỏ lửng mà con mắt dõi xa, xa hơn nữa, tâm hồn trải dài và rộng ra hơn nữa, mênh mang trong sự về đâu ấy để lột tả được sức nặng của lòng người, của tâm tư những người trẻ, tâm tư của thanh xuân …tương lai, tương lai chờ đợi là gì chỉ biết ngày mai, ngày mai lại bom đạn, và hoàn thành nhiệm vụ là quan trọng nhất, còn thời gian đâu mà nghĩ tới xuân thì, nghĩ tới gương lược để làm đẹp cho bản thân, và rồi cái cảm xúc về đâu ấy vẫn có, con gái, phụ nữ không thể không có thời gian cho bản thân, không lẽ ở ngã ba Đồng Lộc lại không có đêm, vì chỉ không có đêm thì người con gái mới chỉ suy nghĩ cho công việc, cho hoành thành trách nhiệm mà không nghĩ tới bản thân mình, và rồi chỉ có đêm thì tâm trạng người phụ nữ mới nghĩ về bản thân. Nhà thơ Mai Văn Phân rất hiểu, tư duy của ông đã từng trải và nhạy bén, ông nhìn ra và hạ ngữ xuống bằng từ “xõa” lúc đêm về ấy, lúc chân trời về đêm ấy cái đặc trưng còn lại và cuối cùng của con gái, của phụ nữ là mái tóc được nhà thơ liên tưởng và không bỏ xót. Gương lược thôi thì hình như chưa đủ, gương lược như chỉ là vật chất, cái phụ, thì thiếu mất cái chính, cái con người rồi, và giờ là mái tóc, …chân trời mái tóc màu đen, cũng không ổn, chân trời mái tóc để rơi nỗi niềm, cũng không ổn với về đâu, không khác với thơ khác, không tạo ra cái ý gì cả. Chưa hình thành ý và giờ nhà thơ phải đi tìm ý bằng ngữ của mình.
    Ở đây khác với văn, là nhà văn có sẵn ý và dùng ngữ thể hiện ra ý thôi, còn nhà thơ khó hơn nhà văn trong tư duy của mình. Giả sử như giờ có ý biết từ trước và rồi nhà thơ Mai Văn Phấn dùng lại cái cỏ nó ý như ý của Ta-gor thì gọi là đạo thơ rồi. Hoặc là có ý của các câu thơ khác, của các nhà thơ khác mà Mai Văn Phấn biết trước, như là nhà văn biết trước ý của mình rồi mới tả, mới dựng ngữ thì Mai Văn Phân làm hai câu này và tức là trong tâm thái, tinh thần nghĩ mình đã đạo thơ ở đâu đó, lập tức ông sẽ bỏ hai câu này ngay, hoặc không bao giờ đồng ý cả, thế là nhà thơ không đồng ý với ý đã biết mà để sáng tạo, còn nhà văn thì ý đã biết chỉ sáng tạo trong ngữ, trong cách tả, cách hành văn của anh ta mà thôi.
    Màu sắc của chân trời, thường tạo ra cảm giác, màu đỏ như cháy, tóc cháy thì không được, gương lược về đâu, cái đẹp về đâu, nhan sắc họ về đâu? thì chân trời để xõa một màu cỏ non, chân trời để xõa, tóc các cô đã thành tóc trời, xõa xuống vai như xõa xuống chân trời, phủ xuống không gian mà màu đêm đang buông xuống, hay là hoàng hôn chân trời, chân trời trong hoàng hôn, chẳng có chân trời trong bình minh mà người ta hay dùng chân trời cho hoàn hôn hơn, và thế là tìm đâu ra hình tượng tích cực phù hợp với gương lược bây giờ: màu cỏ con có lẽ là tìm tòi của Mai Văn Phấn mà ông phải mất ăn mất ngủ vài ngày, vài tuần có khi là ngày tháng mới hoàn thành vế này của câu thơ. Tôi dám chắc rằng ngay lúc ý ông chưa viết ra cỏ non này. Mà có khi ông đọc lại câu thơ có cỏ non trong miệng thời gian kia mới sực nhớ tới là mượn màu cỏ non này và áp vào câu thơ dang dở của mình và rồi: chân trời để xõa một màu cỏ non được hoàn thành. Hai câu thơ hoàn chỉnh mà rất lâu mới được đạt ý Nhà thơ mới dừng lại. Thơ này không viết nhanh được là vậy. Dạng thơ tâm trạng, dạng thơ có sức nặng của nội tâm, phải nhập hồn vào tinh thần và cuộc sống của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc ấy mới viết được vì thế không viết nhanh được và không xuất thần như là nghĩ sinh ra và nhận về rồi mọc lên tất cả ấy là cỏ non cho đời được.
    Hòa Phong.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *