Truyện ngắn Phan Thế Hữu Toàn: Bỏ phố

Chiếc xe đò lắc lư, mệt mỏi bò lên khỏi con dốc Mò O thì chết máy hẳn. Nắng trưa tháng tư ở miền sơn cước như trút lửa. Không một chút gió. Hàng cây bên đường đứng rủ lá im lìm. Người phụ xe kéo vạt áo lên, lau vội những giọt mồ hôi trên trán, rồi chồm người vô sàn xe lấy mớ đồ nghề cũ kỹ, chui xuống gầm cặm cụi sửa.

Tuấn thở dài mệt mỏi nhìn xuống chân dốc, buông một câu như trách móc “kiểu này biết chừng nào về tới nơi”. Từ đây về phố huyện còn hơn hai chục cây số, đường dốc quanh co, mấy bà phụ nữ đi buôn chuyến chỉ về tới đó, còn Tuấn thì phải ngồi xe ôm lóc cóc đường rừng thêm cả chục cây số nữa mới vô đến vùng đệm của khu rừng Krông Hinh. Con cá thu tươi rói mua từ thành phố đã được ướp muối, xếp vào túi ni lon khá cẩn thận, nhưng Tuấn vẫn ngay ngáy lo về tới lán trại của đội khảo sát lâm sinh sẽ bị ươn. Hơn hai tháng rồi, anh cùng bốn đồng nghiệp đều là những kỷ sư trẻ, khoác ba lô mãi miết lặn lội trong những cánh rừng già, nghiên cứu một số loài động thực vật đang tồn tại ở đó. Ngoài tư trang cá nhân và một số phương tiện tác nghiệp, cả nhóm chỉ mang theo gạo, mì tôm, cá khô và một ít thuốc men cần thiết. Lần này Tuấn được về phố, mang lên con cá biển cho các đồng nghiệp thưởng thức một bữa tươi ra trò. Tiếc vì cảnh xe cộ ì ạch.

Nhà văn Phan Thế Hữu Toàn ở Phú Yên

Nhìn người phụ xế và lái xe lưng áo đẫm mồ hôi, tay chân lấm lem dầu mỡ, gương mặt nhăn nhó, Tuấn đoán biết việc khắc phục sự cố kỹ thuật phải chậm trễ, có khi đến xế chiều mới xong. Ngồi tựa lưng bên gốc cây muồng trâu, Tuấn lóng ngóng dò xét, chờ đợi trong trạng thái mệt mỏi. Lâu lắm mới có tiếng xe máy bò lên dốc, Tuấn chồm dậy nhìn bằng ánh mắt hy vọng tìm thấy một tay xe ôm nào đó, hay chí ít một người đi về phố huyện để vẫy tay bám theo, nhưng khi chiếc xe máy ló dạng trên đỉnh dốc, Tuấn mới thấy mình chưng hửng, đường rừng vắng vẻ mấy ai đi một mình. Chút bực bội pha lẫn nỗi lo, nếu về phố huyện quá ba giờ chiều, chưa chắc xe ôm chở đi chặng đường còn lại. Tuấn lôi từ trong ba lô ra tờ Văn Nghệ Trẻ do thằng bạn cùng khoá vừa gửi tặng, rồi lật tìm bút ký “Một ngày ở vườn quốc gia Yok Đon”. Anh đọc ngấu nghiến “…Tổng diện tích Vườn quốc gia Yok Đon đã tăng lên 115.544 ha. Đây là khu vực duy nhất ở Việt Nam cùng tồn tại đồng thời nhiều hệ sinh thái rừng khác nhau trên một phạm vi rộng lớn, là nơi phân bố của nhiều loài thú quý hiếm với số lượng lớn và tập trung. Vườn quốc gia Yok Đon được tổ chức UNDP và Quĩ môi trường toàn cầu (GEF) chọn để triển khai dự án PARC nhằm bảo vệ các  khu rừng khoọp tại Việt Nam. Đây là nơi trú ngụ của một số loài nguy cấp mang tình toàn cầu như Bò Xám, Mang lớn, Nai cà tong, Bò rừng, Voi Châu Á, Hổ, Sói đỏ, Voọc vá… Đặc trưng khu hệ động thực vật có xương sống ở cạn tại vườn quốc gia Yok Đon là sự phân bố tập trung nhiều loài ở khu vực núi Yok Đa, Yok Đon, suối Dăk Na, Dăk Nor mà nổi bật là Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Voi, Hổ, Báo, Công, Gà lôi, Hồng hoàng, Diều hâu, Vượn…”.

Quái lạ ! Tuấn ngẫm nghĩ. Tay nhà văn, nhà báo nào viết cái bút ký này cứ như dân lâm nghiệp không bằng. Chợt anh đưa tay vỗ vào trán, tự nhủ “Sao mình lẩn thẩn thế ! Người ta là nhà báo, trước khi viết họ phải tìm tòi, thu thập tài liệu. Chộp được đề tài hấp dẫn, cuốn hút, thì bài viết càng phải sinh động. Ví như mình đang mãi miết trong rừng cũng vì sức hấp dẫn thực tế của các loài động thực vật…”. Bài bút ký có một chi tiết khá lý thú, khiến cho Tuấn lãng quên sự chờ đợi mệt mỏi, bản lý lịch trích ngang do chính giám đốc Vườn quốc gia Yok Đon tự tóm tắt khá dí dỏm “Học :trồng, ra trường : phá và hiện nay : bảo vệ”. Hoá ra trước đây tay giám đốc này cũng học khoa lâm sinh trường Đại học Tây Nguyên, rồi về Xí nghiệp cung ứng lâm sản số 3 chuyên trách khai thác gỗ, sau đó làm công tác bảo tồn thiên nhiên.

Ấy là chuyện ở Vườn quốc gia Yok Đon đã hình thành bề thế từ lâu, còn Tuấn và các đồng nghiệp đang bám rừng Krông Hinh hoang vu, gai góc, đầy hiểm nguy và có cả lực cản từ phía gia đình, người thân.

Tuấn là con trai của một gia đình công chức ở thành phố biển. Bố làm cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, mẹ làm nghề giáo, cô em gái vừa tốt nghiệp Đại học An ninh mới ra trường, được bố trí công tác ở cơ quan an ninh điều tra của tỉnh hẳn hoi. Còn Tuấn, sau khi tốt nghiệp khoa lâm sinh Trường Đại học Tây Nguyên, anh có đủ điều kiện tìm việc làm nhẹ nhàng ở thành phố biển nổi tiếng xinh đẹp và thơ mộng nhất miền Trung, nhưng anh lại ôm hồ sơ đến Viện nghiên cứu lâm sinh, xin về đội khảo sát hệ động thực vật trong những cánh rừng già mênh mông. Ông Viễn đi họp từ Hà Nội về, nghe chuyện, vội vã can khuyên. Bà Thủy khóc như đưa ma “Con điên rồ, lú lẫn rồi Tuấn ơi. Bao nhiêu người né tránh chốn rừng thiêng nước độc, con chui lên đó làm gì. Mẹ xin con. Nhà này đâu đến nỗi để con cái cùng cực như thế !”. Cô em gái phone ngay cho Diễm, người yêu của Tuấn đang học năm cuối Đại học y khoa Huế. Mấy thằng bạn từ thời phổ thông lôi Tuấn ra quán cà phê vặn vẹo “Mầy hâm rồi hả ?”, “Ấm đầu thì đi bác sĩ điều trị, chứ lên rừng làm gì ?”. Đứa thì

trêu “Mầy đi tìm lộc, hay đi hái thuốc Nam ?”, “Phố xá không ở, lại đi tìm đèn dầu mù u”. Mặc. Tuấn chỉ cười, bảo “Nói như tụi mầy thì cánh thanh niên miền núi tìm đường xuống phố hết”.

Không cản được, cũng không nỡ dứt tình, đám bạn tiễn Tuấn ra bến xe, lên K’rông Hinh nhận công tác ở Đội khảo sát lâm sinh khu vực Nam Trung bộ. Mấy ngày đầu buồn tẻ. Quanh đi quẩn lại năm người lang thang trong những cánh rừng sâu thẳm. Chỉ có tiếng chim kêu, vượn hú. Tiếng con mang tác gọi đàn nghe nẫu ruột. Họ khoanh vùng, thu thập mẫu thực vật, tìm kiếm dấu vết của các loài động vật hoang dã còn tồn tại trong rừng Krông Hinh để tổng hợp, phân tích và đánh giá. Đêm. Lán trại leo lét đèn dầu. Nhớ phố da diết. Tuấn cầm đàn ghi ta khởi xướng cho cả nhóm hát. Mỏi mồm, ôm radio nghe thời sự. Hết trò, lăn ra ngủ đến sáng, tiếp tục cuộc khảo sát thực tế.

Tuấn về đến lán trại khi bóng đêm lan toả xuống rừng. Mệt lả. Húp vội bát canh rau ngót, bước lên tấm nứa ngủ vùi. Một giấc mơ đẹp chợt đến. Tuấn cùng đồng đội vượt suối Pơ Tung khi nắng mai vừa xiên qua kẻ lá. Dường như đêm qua có mưa, thềm rừng ẩm ướt. Lũ kiến bồ nhọt sau chuyến di trú tránh mưa trong bộng cây cổ thụ, giờ lại nối đuôi nhau bò xuống đất kiếm ăn. Đến khu rừng chò có mật độ dày, bất chợt Tuấn nhìn thấy những vết chân thú là lạ hằn trên mặt đất. Vừa rút thước đo, vừa gọi Hải ghi lại những thông số thu thập được vào tập nhật ký khảo sát lâm sinh. Ngẫm nghĩ một lúc, bất chợt Tuấn reo lên “Đúng là dấu chân Bò tót rồi”. Anh đưa ra những thông tin so sánh khác biệt giữa đặc điểm nhận dạng dấu chân bò tót và bò rừng, khiến cho cả nhóm nhảy cẫng lên, ôm nhau sung sướng như nhặt được vàng. “Bò tót. Gặp bò tót  r..ồ..i”.

Tiếng thét của Tuấn ném trong bóng đêm, chạm vào vách núi, dội lại rền vang. Hải hoảng hốt bật dậy lia đèn pin vào rừng. Chợt hiểu, Hải xoay sang lay Tuấn dậy. Một cảm giác nửa thực, nửa hư ẩn hiện trong đầu Tuấn. Anh bước xuống suối rửa mặt, ngược trở lên đốt đèn bão, đọc lại tài liệu nói về động vật quý hiếm. Nhớ, có người bảo, đôi khi giấc mơ cũng là điềm mộng báo trước điều lành, chuyện dữ sắp xảy ra. Tuấn thầm cười, tự nhủ “Dây thần kinh mơ ước hiếu động đấy thôi !”. Tưởng vậy. Nào ngờ năm ngày sau nhóm khảo sát tìm thấy dấu chân bò tót thật. Cuối tháng năm, cả nhóm khoác ba lô, tạm xuôi về đồng bằng. Chẳng màng tới đám bạn ở phố, Tuấn ngồi nhà sắp xếp tư liệu sống thu được sau chuyến khảo sát để viết báo cáo đề tài khảo sát hệ động thực vật rừng K’rông Hinh. Bà Thuỷ lén nhìn cậu con trai gầy xộp đang cặm cụi, săm soi những bức ảnh chụp vết chân thú, cây rừng và chồng tài liệu, sách báo tiếng Việt, tiếng Anh ngổn ngang trên bàn. Bà lắc đầu, chặc lưỡi buồn tẻ. Ông Viễn thở dài, nhưng không nỡ trách con. Cô em gái móc méo “Chẳng bao lâu nữa anh hai kính mến của em sẽ trở thành người rừng. Sướng nhỉ !”. Tuấn như người khiếm thính. Lặng lẽ viết một cách cần mẫn từ sáng đến tối. Cần mẫn đến mức nhận thư của Diễm từ sáng, nhưng đến khuya mới bóc ra, đọc lướt. Diễm trách. Tuấn cười một mình, ngẫm nghĩ “Con gái ấy mà”. Năm, bảy lượt không thấy hồi âm. Mở hộp thư email, trống hoác. Diễm hờn dỗi, gọi điện thoại tới nhà nói lời chia tay. Tuấn không thanh minh, lặng lẽ tự trấn an mình “Duyên số ấy mà”. Rồi anh lầm lũi trở về rừng tìm thêm tư liệu sống cho báo cáo khảo sát còn đang dang dở. Phố xá với anh bây giờ dần xa lạ. Núi rừng càng trở nên gần gũi thân thương.

Ròng rã bốn năm bám rừng, trông Tuấn như ông cụ non. Bù lại từ những bản báo cáo kết quả khảo sát hệ động thực vật, Tuấn xây dựng và bảo vệ thành công đề tài nghiên cứu khoa học về bảo tồn thiên nhiên Krông Hinh. Ông trưởng phòng tổ chức cán bộ Viện nghiên cứu lâm sinh gợi ý Tuấn ra Hà Nội, nhưng anh xin được trở lại Krông Hinh. Ở đó, với anh đâu chỉ có thiên nhiên khoáng đãng, tiếng gió núi, mưa rừng, tiếng chim ca rộn rã, tiếng mang tác gọi đàn trong chiều đông, tiếng ve râm ran trưa mùa hạ, tiếng suối róc rách đều đều trong mùa khô, ầm ào giận dữ trong mùa lũ…mà còn có cả H’Linh – đứa con gái dân tộc Ê đê lủng lẳng vòng kiềng bạc trên cổ, lắc lư chiếc gùi đầy măng le trên lưng. H’ Linh là tình nguyện viên giúp Tuấn và đồng đội của anh vượt thác, băng rừng, đi tìm tư liệu sống ở Krông Hinh, chỉ vì cô không muốn đồng bào mình phá rừng, du canh, du cư. Năm năm đầy ắp những kỷ niệm giản dị, nhưng lắm lúc như sợi dây vô hình ràng buộc Tuấn, khiến cho mỗi lần về phố, nỗi nhớ rừng, nhớ H’Linh trỗi dậy trong anh cồn cào, da diết.

***

Trăng đêm tháng tư ở miền rừng đẹp như đứa con gái tuổi mười tám. Huyền ảo, mơ màng như cõi tiên trong những câu chuyện cổ tích của đồng bào dân tộc Ê đê. Không gian như mở, như khép. Gió len lén trôi nhẹ qua thềm rừng. Hình như từ lúc ánh ngày vừa nhường chỗ cho bóng đêm, cánh trai làng Len đã mang mấy ché rượu cần bày ra trước sân đất đậm nét hoang sơ. Đêm nay, già làng Ma Vi mời rượu trước khi Tuấn cùng đồng nghiệp rút khỏi Krông Hinh. Bên ánh lửa bập bùng, những bước chân trần tất bật bày thịt lợn và muối trên bốn chiếc nong tre. Con gái, con trai và cả lũ làng cùng vui như hội. Rượu cần ngọt thơm, nồng nàn, khiến cho đêm dường như dài ra. Từ phía góc sân, tiếng hát của H’Linh ngân lên “Khi nghĩ về đời người, tôi thường nghĩ về rừng cây. Khi nghĩ về một rừng cây, tôi thường nhớ về nhiều người… Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai. Ai cũng một thời trẻ trai, cùng thường nghĩ về đời mình. Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng đành, phải không em, phải không anh…”.

H’Linh hát mà ánh mắt cứ đong đưa nhìn Tuấn.

Rồi đêm cũng tàn. Sáng sớm, H’Linh ra tận con suối tiễn Tuấn và các đồng nghiệp của anh. Cô đứng bên gốc cây kơ nia dõi mắt trông theo cho tới khi bóng Tuấn khuất hẳn sau triền núi phía Đông. Bốn tháng sau, bất ngờ Tuấn trở lại làng Len. Lần này, trong hành trang của Tuấn có quyết định thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Krông Hinh và bổ nhiệm anh làm giám đốc. Gặp lại Tuấn, già làng Ma Vi thốt lên “Mầy là đứa con của buôn làng rồi đó”.

PHAN THẾ HỮU TOÀN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *