“Chim Việt hôm nay chỉ là những gì mình động vào ảo ảnh của ngàn tiếng vỗ cánh không trung trong phút giây tan tành của Linh Thức. Thôi bây giờ cũng là kiếp hư thôi.” – Nh. Tay Ngàn

Thập niên 1960, nhiều nhà văn, nhà thơ du học từ Pháp về tạo nên làn gió đổi mới văn nghệ ở miền Nam như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn… Còn Nh. Tay Ngàn lặng lẽ xuất hiện trên báo Văn, trong số 28 ra ngày 15.2.1965 trang “Giới thiệu những cây bút có triển vọng đi xa” viết: “Nh. Tay Ngàn là nhà thơ có bài được chọn đăng nhiều nhất trong số các bạn trẻ tìm đến Văn. Tên thật là Nguyễn Văn Nhĩ, sanh năm 1943, nguyên quán Vĩnh Bình. Hiện đang theo học ngành Canh nông tại Pháp”.
Ông viết nhiều trên tạp chí Quê Mẹ ở Paris, theo Thi Vũ thì Nh. Tay Ngàn còn để lại di cảo khoảng bốn ngàn trang, đóng thành 20 tập tại nhà thân nhân. Định mệnh khắc nghiệt lại cướp mất nhà thơ tài hoa, bệnh hoạn, đau khổ tận cùng, từng có thời gian nằm ở bệnh viện tâm thần: “Đầu tháng Giêng 1978, các bạn của Nhĩ gọi dây nói cho biết Nhĩ chết rồi. Một hôm, bà gác dan (concierge) thấy mấy ngày qua Nhĩ không ghé lấy thư. Bà lên đập cửa phòng. Không nghe hồi đáp, bà lo lắng mở cửa xem thì Nhĩ đã nằm chết trên giường nhiều ngày… Thi hài đốt ở nghĩa địa Père-Lachaise, Paris quận 20. Dự tính sau này sẽ gửi tro về Việt Nam. Dường như Nhĩ có một người anh sống ở Saigon. Nghĩa địa Père-Lachaise còn lưu giữ những mộ chí của Gerard de Nerval, Chopin, Balzac, Alfred de Musset, Proust, Apollinaire, Pissaro, Oscar Wilde…”. (Thi Vũ – Nh. Tay Ngàn, Lập lòe trí nhớ)
Nh. Tay Ngàn làm thơ, viết văn và vẽ tranh, có lần triển lãm cá nhân tại phòng tranh Louis Soulanges, đường Montparnasse.
Ông “xa lạ” với văn thơ Sài Gòn thời ấy: “Có thể vốn sống trong thời loạn ly của họ bị nghẹt nên sanh ra nhiều tánh ganh tị trách móc hoặc ghen ghét nhỏ nhoi, bởi đó mức văn hóa trì trệ rồi rút lì vào ảo tưởng bất nhất kia” (thư viết ngày 17.12.76). Kể cả “dị ứng” văn chương thời tiền chiến và Tự lực Văn đoàn, vì cho rằng : “Giá trị họ ở trong tầng lớp sinh viên học sinh còn trẻ, thiếu sáng tác chứ không thể là giá trị vĩnh cữu cho chúng ta nữa, đành rằng mọi tư thế phê bình luôn toa rập với số đông. Ngay cả tôi hồi nhỏ cũng chẳng bao giờ ưa “tự lực văn đoàn”, tới nay chuyện xưa rồi, nhắc lại để tự mình thấy điềm nào đó không hay ho nữa” (thư viết ngày 17.12.76). Lúc đầu ông thích nhóm Sáng Tạo, rồi cũng quay ngoắt đi vì thấy mình không dung nạp được.
Rất nhiều người gán cho ông là poète maudit, một tay ngoài lề xã hội, lang thang, khốn khó ở Paris, ở Ý, có lúc phải mang bệnh lao, từng vào nhà thương điên mà vẫn đam mê cuồng nhiệt với văn chương.
Ngay từ thiếu niên, trải qua cuộc chiến tranh chống Pháp khổ ải, chứng kiến cái chết thảm thương của người cha bị bắn vỡ sọ trên đồng, nên chấn động tâm thần, có lẽ vì thế những bài thơ tình của Nh. Tay Ngàn đều có những khoảng hư không tối tăm, quặn thắt, âm vang khó hiểu.
Bài Nỗi Liên đen tối vô cùng, dài 253 câu, là lời tâm sự trường thiên với người yêu, quê hương Trà Vinh, mang nặng tâm cảm siêu hình điên loạn:
… Chợt tiếc đau ở những chiều không thần tượng
Tôi có làm gì đâu cho bản thân tôi
Chỉ còn trái tim tôi tâm sự
Ngày thu đang rụng lá nhiều hơn
Bản sầu ca không còn nàng ca sĩ cũ…
… Đùa gió Tháp Mười sang Cửu Long đầy máu…
Không gian Trà Vinh, nơi người Việt, Hoa, Khơ Me chung sống, đượm hơi thở bàng bạc Phật giáo Tiểu thừa luôn ẩn hiện lập lòe:
…Có những oan hồn nhắn tôi cuộc gặp gỡ
Nơi Liên đã khóc đêm ngày
Trong mười hai năm Trà Vinh đầy quạ…
…Tôi giấu một con rồng trên bãi không gian mun
Chờ những đoàn trẻ thơ bay qua ốc đảo…
Ông kết thân với những người bạn lớn tuổi, hiểu tâm trạng bơ vơ, cuộc sống đói rách và những khoảng lạnh vắng trong tâm hồn mình như Phạm Công Thiện, Thi Vũ, Vĩnh Ấn…
Thi Vũ viết: “…Tôi ít thấy ai say sưa viết như Nhĩ. Âm thầm. Cặm cụi. Không nói. Không ba hoa. Những chuyến viễn trình, những cuộc tình vặt, những đêm đốt thuốc bên quầy bar với rượu rhum từng ngụm cay nhè… chỉ để dàn ra từng dòng chữ chân chỉ trang này sang trang khác. Có hôm tôi nhìn thấy trên 20 tập bloc, dễ cũng trên bốn nghìn trang, chữ nhỏ đều đặn. Từ chữ đầu đến chữ cuối không một lần mất kiên nhẫn, như một vũ trụ kiến kéo nhau đi thành hàng dọc. Khi thơ khi văn. Trong văn học Việt Nam có hai người không viết văn, viết thơ thành bài, mà dàn trải tới vô tận dòng thơ văn không có dấu chấm. Đó là Bùi Giáng và Nh. Tay Ngàn. Văn và ý tưởng, thơ và ý tưởng trộn nhau như chớp với đá kết ngọc. Hết õng ẻo với quá khứ, không thời trang thế cuộc, không nép mình vào ca dao hay bốc khói trên chợ trời văn học. Đọc Nhĩ phải có mắt xanh với tấm lòng rớm máu thì mới cùng Nhĩ song thoại trong “thế giới vốn nhỏ và hạt bụi muốn đau”, khi nhà văn Việt Nam “thấy ngu trước nhà văn quốc tế”.” (Thi Vũ – Nh. Tay Ngàn, Lập lòe trí nhớ)
Trong tùy bút tự sự trên tờ Quê Mẹ (Xuân Canh Ngọ, năm 1990) Phạm Công Thiện thuật lại cuộc gặp gỡ ở Paris: “… cả hai đều nghèo đói và chỉ biết sống hết mình với văn thơ nghệ thuật; cả hai thường lang thang suốt đêm trên những đường phố Paris, lúc nào có chút ít tiền thì la cà ngày đêm trong những quán café ở Montmartre. Cả hai đều say sưa viết, mộng và mơ bất tận… Có lúc dắt nhau ra bờ sông Seine, thòng mấy chai rượu đỏ xuống nước sông, uống rượu say lướt khướt, ngâm thơ Lý Bạch và Nguyễn Du, đọc thơ Appollinaire ngay nơi chỗ ở xưa của thi nhân, ngó những cụm mây trắng ngập ngừng trên tháp chuông nhà nguyện Saint Germain-des-Prés…”.
Hay trong thư Lettre à un poète vietnamien avant son suicide… Phạm Công Thiện viết: “Nh. Tay Ngàn thân quí, …tao vẫn còn giữ lại màu xám đậm đà ở Paris, trong đó có màu của đôi mắt mày, đôi mắt nửa đêm nửa ngày của Ý thức mới, của một thứ mây mai vừa hiện trên bầu trời thắp sáng, “một khung trời mưng mủ” như một lần mày đã gọi thế, phải không Nh. Tay Ngàn?”.
Ở mảng thơ tình của Nh. Tay Ngàn là niềm đau vô hạn, từ ngữ như có ma lực làm thành những câu thơ tân kỳ, quyến rũ:
… Khoảng ngực trần của em gió bấc
Anh yêu em vô ngần dù đêm nay em đã quên anh
(Nụ cười)
… Khi những chiều anh đáp xe về thành phố và qua vườn Luxembourg,
Nhìn pho tượng trần truồng gục đầu ngó đất;
Lá rụng dày thương nhớ trở vàng thêm.
(Ảnh tượng cuối thu)
Nghĩ về tập di cảo bốn ngàn trang chi chít chữ, cuộc đời yểu mệnh của gã poète maudit Nh. Tay Ngàn với niềm bùi ngùi tiếc thương vô hạn và tôi viết bài thơ:
Mộ chí cho Nh. Tay Ngàn
Những con chữ chết ngộp trong nước sông Mê Kông,
Xác ùn cao chất thành mộ chí.
Lúa hát lời ru, sóng vỗ thay lời kinh tụng bình yên
Nơi đây an nghỉ giấc ngủ nhà thơ tự sát,
Chưa kịp gia nhập vào đội ngũ tiền vệ hay hậu hiện đại nước Việt.
Một nấm mộ gió giữa đồng bằng
Đơn sơ và trơ trọi
Kết thúc không có hậu, mang mùi vị chua xót, ngậm ngùi
Đó là câu xề vọng cổ nghẹn hơi,
Con dơi đen tức tưởi
Đậu cô đơn nơi nóc chùa Miên
Và bông huệ trắng xứ Trà Vinh ứa lệ tinh khiết.
TRẦN HỮU DŨNG
__________________________

Thơ NH. TAY NGÀN
BÀN TAY
trên cao xa kia nhớ nhung nàng chỉ còn mảng trời tím lạnh.
buổi chiều tắt dần tắt dần tiếng chuông,
cây lá sẩm.
nàng vuốt lấy mặt nàng,
thấy ngón tay nàng ướt đẫm.
những đớn đau lớn theo đời nàng
nàng đếm mãi trên bàn tay
(ôi những ngón tay yếu ớt như côn trùng đơn chiếc).
còn thanh xuân nàng ư?
nàng hỏi sao mùa đông loài chim ủ rũ?
ôi những chiều những chiều kéo nàng vào bóng tối
những xót đau khó hiểu của hồn chàng,
chàng đặt giữa vũng tay nàng,
chàng bỏ chàng đi;
rồi mặc tình cho con lốc bi thương cháy rực.
nàng vuốt lên thân thể nàng;
ôi bàn tay em đâu là cánh tay anh.
nàng hôn lấy hôn lấy từng chiếc móng.
ở cuối đêm khuôn mặt chàng xanh.
CHIM
một sáng thức dậy nàng biết nàng không còn tiếng hót
mặt trời nàng nhìn thẳng
cũng hóa đen
rồi mùa rét mang về nhớ nhung
lòng nàng mướt xanh
vết thương tự đấy mưng lên
nàng muốn bay vào miền ấm áp của lòng chàng
nhưng cánh nàng đã mỏi
và bắt đầu nàng gọi
rừng chập chùng
căn lầu vườn cây bốc cháy
đêm ơi đêm anh ơi anh
MÙA THU THÀNH PHỐ
Một sớm thức giấc anh chợt nhớ ra mình đang ở trong một thành phố xa lạ
Anh chợt nhớ ra sau cơn mộng kinh hoàng em đã ngàn trùng mây nước kêu gào vô vọng nhớ thương
Đáng lẽ giờ này em đang nũng nịu trong vòng tay anh, mớ tóc đen mềm mướt, đôi mắt ngái ngủ dịu dàng và bên ngoài nắng ấm dọi qua song
Căn phòng vang tiếng em cười vui bữa ăn sáng mà anh nghe thấy cùng một lúc với giọng chim sẻ ca hát trên những mái ngói
Rồi anh đưa em qua những cửa nhà thân thuộc, một cái dốc một chiếc cầu con sông chợ nhóm, vườn thú có những lùm cây xanh tươi hoa đỏ và anh rẽ tay mặt
Trên đường về nhà qua những con đường bóng mát anh thường huýt sáo
Đâu ngờ đến ngã rẽ cuối cùng bây giờ anh ở đây với bầu trời xám thấp, các cửa kính đóng chặt – đóng chặt ngàn đời, những ống khói đen sầm
Anh lo sợ cho em trong những buổi chuông về bước nhỏ đánh thức mọi vật reo hò kỷ niệm
Anh lo sợ trong những chiều sụp tối gian phòng vắng lạnh bóng đêm lặng lẽ vây lấy em
Anh lo sợ ở cuối đêm anh trở về hình bóng chập chờn không sưởi đủ chuỗi ngày em đốt bằng ký ức
Em ơi, đâu còn ai cận kề bên em những giữa đêm mưa dưng không òa khóc
Làm thế nào có thể quên em những khi hoàng hôn sậm mặt
Trong vườn Luxembourg anh ngó anh ngồi im một mình
Những hàng cây đượm vàng lá úa
Mỗi trận gió đem rơi từng chiếc u sầu
Những pho tượng hoen rỉ kia yêu nhau ngàn năm
Cặp tình nhân trong một góc hôn dài đắm đuối
Đâu như đôi ta phải vội vã xa lìa
Để những giọt nước mắt em anh chưa kịp lau
Chưa kịp nếm đắng cay trên môi em đầu lưỡi
Làn tóc rối tung không đợi anh kịp vuốt
Để tháng ngày em xõa mộng thương đau
Em ơi em, làm cách nào em giam giữ hoài con chim giữa lòng ngực
Anh bay ra thương tích đầy hồn
Em ơi em, những nắng mưa bên kia miền nhiệt đới
Với âu lo chuông đổ gió về
Em lụn tàn đêm gối chiếc bơ vơ
Ôi mộng mị nuôi cuộc đời sao đủ
Còn tương lai kia anh mang bỏ giữa rừng
Em lạc lõng giữa hùm beo rắn rít
Với thân gầy em chỉ khóc van xin.
*
Làm thế nào có thể quên em được khi đèn đường bật lên vàng võ
Trong những nẻo quanh co phố lầu tẻ ngắt
Anh tìm một vì sao như lệ mắt em
Anh chỉ thấy một khung trời mưng mủ
Và hai tay lạnh giá đã dầy.
ẢNH TƯỢNG CUỐI THU
Khi anh mệt mỏi leo lên ngọn đồi ở miền Orsay nghe những chuyến xe lửa hú,
anh dẫm lên lớp lá khô như giấc mộng tàn;
nhớ lại khi xưa em là đồng bằng mỗi ngày anh núi rừng ao ước,
muốn gặp nhau anh cất lời gọi vọng,
em trao tình hoa dại đọng sương;
giờ anh đã mờ xây xa vắng,
ngóng về em tiếng gào còm cõi,
chạm xác xơ mặt cỏ nám u buồn.
Khi những chiều anh đáp xe về thành phố và qua vườn Luxembourg,
nhìn pho tượng trần truồng gục đầu ngó đất;
lá rụng dày thương nhớ trở vàng thêm.
ĐÊM XỨ LẠNH
Nàng nhỏ xuống trí nhớ những giọt lệ xanh
Mộng mị hoang vu tôi mọc dày nấm mốc
Nàng thở trong tim những ngày tháng ấm
Tôi ôm nàng tay vắng hư không
Cay đắng hiện lên như luồng gió lạnh
Tôi cuồng quay như trái bóng dưới chân.
Trong dĩ vãng móng tay nàng nhọn
Đêm trở mình tôi ve vuốt vết thương
Và mắt nàng nửa đêm tinh tú
Triền miên rơi xa xót nhớ nhung.
ĐƠN KHÚC CỦA LIỄU
Ba giờ trưa một khúc nhạc sầu
Un jour sans toi
Những chiếc lá tàn rơi không cần một làn gió
Điếu thuốc đốt lên hình bóng
Và chợt tắt bơ vơ
Kỷ niệm xuống đêm
Ở chót vót của tuyệt vọng
Anh im lìm ngắm hai tay không
Un jour sans toi
Người thủy thủ già từ bỏ biển khơi
Chiếc tàu đã chìm
Căn phòng nhuộm đầy bóng tối
Mền gối bắt đầu rã mục
Liễu ơi Liễu
Un jour sans toi
Tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
Gạch ngói hoang tàn hồn anh
Cùng tiếc thương mọc lan trên đó
Un jour sans toi
Một ngày người thủy thủ già
Vô vọng chuyến ra khơi
Liễu ơi Liễu
CỔ TÍCH
Xưa kia người mẹ sanh một đứa con trai
Bà nuôi chàng nuôi chàng ngót bốn ngàn năm
Rồi một ngày nọ người từ trần
Chàng thì ốm yếu và khóc than
Từ đó cỏ sắc mọc xuyên suốt hồn
Còn trái tim chàng chứa thanh kiếm báu
Của người cha anh hùng
Với thanh kiếm ấy người ta cắt đầu chàng
Một dòng sông chảy qua
Với giọt máu tự trái tim chàng
Mỗi buổi chiều khi mây đen gieo mưa xuống
Mỗi buổi chiều khi biển thổi gió về
Chàng nhớ chàng thương
Người mẹ nuôi nấng chàng bốn ngàn năm khổ nhọc
Mỗi buổi chiều khi ánh nắng cuối cùng chui xuống lòng biển
Những đàn chim phương bắc xa xưa bay về cùng bầu trời tối đậm
Những đàn chim đau thương câm miệng
Chàng sờ lên vết máu
Bốn ngàn năm, bốn ngàn năm chàng đà tìm thấy tận hưởng gì đâu
Duy hai giọt lệ đọng hoài trên gò má.
DI HÀNH TRONG NGÀY
Tôi bị đánh thức một buổi chiều dưới đường hầm
Chiếc metro ngừng rước người đứng chật
Chưa bao giờ tôi bị dồn nghẹt một xó như thế
Tôi vinh thân gì chính tôi đâu
Chưa bao giờ tôi thở nhọc nhằn bằng lúc này
Không khí sắp hết cho hai buồng phổi
Không lấy được một tiếng kêu
Dù để nhắc lại một chiều nào hò hẹn
Hành khách ùa xuống một trạm
Đùn tôi ra mặt đất
Vây lấy tôi giận dữ
Tôi la hét giữa phố
Lánh xa tôi để tôi yên
Óc yếu đuối nhìn lầu cao lộn ngược
Tư tưởng nằm úp mặt đường bừa bãi đá ong
Xe cộ tàn nhẫn
Anh cố quên viễn ảnh hãi hùng một sớm mai
Chết cô đơn khu phố hẻo lánh
Em không hay biết gì nửa đêm bên ấy
Hẳn nhiên em tin anh đang sung sướng
Và bạn bè vẫn gắng đỗ đạt cao
Tôi leo mất thăng bằng trên khải hoàn môn
Chưa bao giờ tôi mãn nguyện cho công việc
Hạnh phúc chỉ là sự tình cờ hiếm hoi
Cả tình yêu anh coi một huyền tích
Hai đứa xuống trần gian tìm dấu chân nhau
Thành phố mô hình xoay vòng tròn
Người vật di dịch như đàn vi khuẩn trong não
Anh them muốn nỗi chết dưới mắt
Làm sao có ngày ngưng chiến em tận mặt anh.
MỘT NGÀY ĐẸP TRỜI THÁNG SÁU
Những trái anh đào chưa có dấu răng
Đàn chim reo mừng trong chòm lá
Những quả bôm bày nụ cười ửng hồng
E thẹn như đôi má lần anh bạo dạn đặt môi
Sầu riêng và hoa hồng nở nửa đêm
Thơm ngon như trái măng cụt bên nhà
Tháng sáu em quên buồn phiền
Ngày tuyết phủ xa lắt xa lơ
Đêm em hát
Để tinh tú xúm lại ngủ
Trên miền tóc không chải
Anh gỡ chiếc mặt nạ của cuộc sống
Chụm hai tay uống cạn nguồn lệ
Suồng sã trên ngực em
Khiến những vì sao hốt hoảng buông mình lã chã.
NỤ CƯỜI
Lũ bồ câu lười héo mái nhà đội tuyết
Chúng sẽ chết trước khi nắng về
Trong vườn Luxembourg jardin des Plantes giữa boulevard Saint Michel
Trên tháp chuông trên ống khói
Vùng nhiệt đới bên kia trùng dương sa mạc bão cát lòng vực thâm u
Người ta yêu nhau chậm chạp chuyến xe mỏi
Rồi quên hết sau đó
Khoảng ngực trần của em trời mùa đông
Anh yêu em vô ngần lúc chập tối
Muốn nói vạn lời cho sao hôm mọc
Lúa vàng chờ lưỡi hái
Tử thần chờ anh nhà cửa lầm lì
Sao hôm sau áng mây ám thần trí anh kiệt quệ
Anh sợ nằm trong căn phòng đơn đêm ngủ không được
Ra đón em ngoài gió bấc tuyết rơi
Chuyến tàu bị nạn ngoài biên giới
Anh thầm hỏi ga nào có em
Nụ cười ánh đèn khuya khoắt
Người ta còn có thể yêu nhau nữa không
Khi hồn đêm không nhấc nổi nụ cười
Lũ bồ câu trên mái nhà
Đêm nay chúng gắn liền tuyết giá
Chết sung sướng địa phận thân yêu
Rạng ngày những bà lão mủi lòng cho
Con vật trông thấy thường ngày nơi khung cửa
Ai biết anh sáng hôm sau
Khoảng ngực trần của em gió bấc
Anh yêu em vô ngần dù đêm nay em đã quên anh
Anh còn đủ một giây hôn em ngủ ngon
Dù cạn thuốc quẹt lửa hết xăng
Anh còn đủ một giây đốt nụ cười
Thốt gọi tên người yêu dấu lần cuối
Rồi quay lui về thần chết anh.
(Tập san Văn số 58)