Thay đổi một quan niệm, một nhận định đã tồn tại quen thuộc trong nếp suy nghĩ của mọi người không phải là vấn đề dễ. Nhưng qua những tác phẩm thành công viết về đề tài chiến tranh và người lính của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đầu Đổi mới như Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu – 1988), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh – 1991), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai 1991),… người đọc có thể nhận thấy chiến tranh qua cái nhìn của các nhà văn này đã khác trước – cụ thể là văn học 1945 – 1975 rất nhiều.

Nhà văn Xuân Thiều từng viết “Một đất nước 50 năm không ngớt tiếng súng thì không khí chiến tranh in đậm trên gương mặt văn học là lẽ đương nhiên”. Hẳn vậy, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, mối quan tâm lớn nhất của mọi người dân Việt Nam yêu nước là làm sao chúng ta chiến thắng được quân thù, làm sao để có cuộc sống hoà bình.
Anh chị em nghệ sĩ – những chiến sĩ trên mặt trận văn hoá cũng hướng ngòi bút của mình vào mục đích cao cả đó. Tác phẩm của họ phải là những bản anh hùng ngợi ca cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Mà sự thật, cuộc kháng chiến này, những lớp người này muôn đời đáng được ngợi ca như thế. Chính cảm hứng ngợi ca và khuynh hướng sử thi lãng mạn đã khiến cho nhiều tác phẩm văn chương phát huy được tính chiến đấu. Biết bao thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên thuộc lòng những bài thơ cách mạng của Tố Hữu, xem Sống như Anh (tên tác phẩm của Trần Đình Vân) là một lí tưởng sống cao cả, thiêng liêng nhất. Mọi cái chết được nhắc đến đều là những cái chết hoá thành bất tử, cái chết để khẳng định sự bất diệt của lí tưởng cách mạng, của lòng quả cảm hi sinh.
Sau 1975, dẫu chiến tranh đã qua đi nhưng đây vẫn là đề tài lớn trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn này. Nhưng đã bắt đầu xuất hiện những tác phẩm nhìn chiến tranh bằng đôi mắt khác. Các tác phẩm này đã bước đầu chạm đến những mất mát hy sinh mà chiến tranh gây cho những con người, những miền quê. Và phải đến sau Đổi mới, hơn bao giờ hết, chiến tranh mới hiện ra với tất cả sự khốc liệt và phũ phàng của nó. Đọc Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai) hay đặc biệt là Nỗi buồn chiến tranh (Thân phận của tình yêu) của Bảo Ninh, chúng ta thấy một nỗi kinh hoàng. Kinh hoàng bởi khi bị bóc hết lớp men tráng trữ tình (Nguyễn Minh Châu) bên ngoài ra, chiến tranh thật là khủng khiếp. Nó lấy đi của con người tất cả, chỉ để lại nỗi buồn!
Chiến tranh càng lùi xa, chúng ta càng có cơ hội mà bình tâm nhìn lại nó. Người đọc hôm nay muốn đuợc biết về một cuộc chiến tranh khác ở Việt Nam. Vẫn là cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ác liệt ấy nhưng như nó đã từng tồn tại trong sự thật lịch sử chứ không phải như nó đã tồn tại trong văn học Việt Nam 1945 – 1975. Để đáp ứng nhu cầu bạn đọc, các nhà văn phải lao vào cày xới lại cánh đồng mà trước đây người ta đã gieo trồng nhiều cây vững chãi. Để gieo trồng nên những cây mới không chỉ đòi hỏi người trồng phải đổ mồ hôi công sức mà phải có cả lòng dũng cảm, dám vượt qua thử thách. Thay đổi một quan niệm, một nhận định đã tồn tại quen thuộc trong nếp suy nghĩ của mọi người không phải là vấn đề dễ. Nhưng qua những tác phẩm thành công viết về đề tài chiến tranh và người lính của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đầu Đổi mới như Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu – 1988), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh – 1991), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai 1991),… người đọc có thể nhận thấy chiến tranh qua cái nhìn của các nhà văn này đã khác trước – cụ thể là văn học 1945 – 1975 rất nhiều.
Trước hết, chiến tranh không phải chỉ có anh hùng chiến đấu để chiến thắng, không phải chỉ là nơi diễn ra những trận đánh hào hùng vang dội mà ở đó mỗi người lính đều là những chiến sĩ trung kiên được ca ngợi, được tôn vinh. Chiến tranh trong cái nhìn nhận thức lại của những nhà văn thời kì Đổi mới gây ra nhiều bi kịch hơn niềm vui, thua thiệt, mất mát không ít hơn cái được, cái thắng. Bước vào thế giới của Nỗi buồn chiến tranh, ta bước vào thế giới của sầu thảm. Chiến tranh là gì kia chứ? Nó là “Cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!”. Chiến tranh chôn vùi hàng bao con người vào một chỗ, biến họ thành những linh hồn lang thang, vật vờ ở truông Gọi Hồn. Chiến tranh dồn người lính vào vùng rừng sâu nước độc, nơi chim chóc khóc than như người, nơi người sống lâu hoá vượn, và nếu người ta “không chết vì đạn giặc thì cũng chết vì khiếp sợ”. Trong Thân phận của tình yêu cái chết được nhắc đến nhiều, toàn là những cái chết kinh hoàng đầy sức ám ảnh.
Và sự thật thì chiến tranh là một lưỡi dao phạt ngang cuộc đời của những người lính sống sót trở về: “Chiến tranh, kháng chiến, không phải như một số người khác, đến bây giờ tôi không hề mảy may hối tiếc đã dốc hết cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ. Nhưng đau đớn là hai nửa cuộc đời tôi cũng không bị cắt lìa hẳn”. Đó là lời tâm sự của Lực trong Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu). Anh sống sót trở về sau chiến tranh nhưng chiến tranh đã lấy đi cuộc sống của anh trước đây, và nó trả cho anh hiện tại thật phũ phàng: Anh em đã mất, ông bố già sống cô độc một mình, vợ đã thành vợ người ta, và ngay cả bản thân anh người ta cũng nghĩ chết rồi. Nhưng anh lại còn sống, sống để mà thấy rằng việc mình sống sót sau chiến tranh chưa hẳn là điều may mắn… Hùng trong Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai) cũng gặp bi kịch sau chiến tranh. Sau hòa bình anh trở thành kẻ lang thang, thất thểu. Chiến tranh đã lấy đi của anh quá nhiều. Sống trong thời bình, anh rơi vào lạc lõng.
Trước đây người ta thường vẫn chỉ thấy được rằng, chiến tranh là nơi tôi luyện, đào tạo con người, làm cho họ kiên gan hơn, anh dũng hơn, sống cao thượng và biết hy sinh hơn. Nhưng không hoàn toàn như vậy, nhiều tác phẩm văn học sau chiến tranh, sau Đổi mới chỉ ra rằng, chiến tranh, nó còn huỷ hoại nhân tính con người, lấy đi khát vọng đam mê tuổi trẻ của họ, làm biến đổi con người họ.
Sau chiến tranh, Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh còn lại những gì? Không gì cả ngoài nỗi buồn. Bạo lực chiến tranh đã giết đi Kiên của một thời “cũng ngập lòng ham muốn, cũng biết say sưa, si mê”. Ra khỏi cuộc chiến, Kiên “đứng lặng ngắm nhìn toàn cảnh đời mình đang mất đi, đang trôi xa, đang vĩnh biệt chính mình”. Mãi mãi anh không thể tìm lại được con người trước đây của mình nữa. Kiên của một thời tuổi trẻ đầy si mê nhiệt huyết không còn, chỉ còn lại Kiên bàng hoàng bước ra khỏi cuộc chiến, mang trong mình nỗi ám ảnh kinh hoàng về chiến tranh. Anh vĩnh viễn không tìm được tuổi trẻ và cách nhìn đời trong sáng như trước đây nữa. Những bạo lực, huỷ diệt và tương lai mờ mịt bủa vây lấy tâm hồn anh. Kiên luôn tìm thấy trong quá khứ, trong thực tại sự phũ phàng đổ nát và cả ở tương lai, anh cũng có dự cảm không yên ổn. Cả tình yêu của anh và Phương cũng không thể như xưa được nữa, dù hai người vẫn mãi mãi yêu nhau. Chiến tranh đã cắm vào lòng họ những vết thương, biến họ thành những con người khác trước, khiến họ dù muốn cũng vĩnh viễn không thể tìm về với ngày xưa.
Văn học viết về đề tài chiến tranh sau Đổi mới cũng có những cách nhìn nhận khác về hình ảnh người lính.Văn học của chúng ta trong giai đoạn 1945 – 1975 đã dựng lên những tượng đài sừng sững về hình ảnh người lính, anh bộ đội, người hoạt động cách mạng. Họ là anh giải phóng quân – con người đẹp nhất . Họ là chị Út Tịch còn cái lai quần cũng đánh, là chị Lý như sắt như đồng, là anh Trỗi kiên gan bất khuất, là Hiên (trong Gieo mầm của Nguyễn Thiều Nam) nguyện lấy cái chết của mình để gieo mầm yêu nước, căm thù giặc trong nhân dân. Trong những tác phẩm thuộc thời kỳ Đổi mới, các nhà văn đã xây dựng hình ảnh của người lính đa dạng hơn, nhìn từ nhiều góc độ khác nhau. Hình ảnh người lính hiện ra rất thực, rất đời thường với nhiều nỗi niềm, tâm sự, ước muốn, bản tính của một con người. Họ không hoàn toàn là những người anh hùng mẫu mực, chỉ biết một mục đích sống duy nhất là chiến đấu và sẵn sàng hy sinh. Không, họ cũng là những con ngời ham sống và đầy những nhược điểm đời thường. Trước súng đạn họ cũng sợ chết. Họ muốn được là những con người có cuộc sống yên ổn thanh bình. Trong Thân phận của tình yêu, thế giới đời sống của người lính hiện ra chân thực đến phũ phàng. Bảo Ninh còn chú ý khai thác những uẩn ức tình dục của người lính. Họ sa vào những mối tình dị thường với những cô gái bị bỏ sót giữa rừng sâu. Tình dục ảm ảnh họ, hành hạ họ. Bảo Ninh đã đi sâu vào thế giới thầm kín của người lính và viết về chúng với niềm đồng cảm, đau đớn. Đây là một hướng đi mạnh dạn của ông khi viết về người lính, và đó cũng là một phần giá trị nhân bản trong Thân phận của tình yêu .
Như vậy có thể thấy rằng, văn học viết về chiến tranh thời kỳ đầu Đổi mới đã có những cách nhìn nhận, đánh giá mới về chiến tranh, về người lính. Chiến tranh không đơn giản chỉ được nhìn nhận ở chiều hướng ngợi ca, và hình ảnh người lính cũng đời thường hơn với những khát khao riêng tư, thầm kín, bản năng và họ cũng có những nỗi sợ hãi. Đó là một sự “nhận thức lại” dũng cảm, khách quan, trọn vẹn hơn, chân thực và đầy nhân văn của người cầm bút.
Tháng 7.2022
NGA TRỊNH