Trúc Phương – Mẹ, đất nước và lưu dân – Kỳ 3

Thấy nhớ quá ngày thơ mẹ nhỉ/ Từ bận đó… / Con muốn thành hiệp sĩ / Dọc ngang nào biết trên đầu…/ Như người trong truyện hồi xưa/ Ở Vàm Kinh cha lật đất, bạt gò / Đào mương lên liếp

 

MẸ, ĐẤT NƯỚC VÀ LƯU DÂN

(trường ca)

 

Chương một:

TUỔI THƠ VÀ NHỮNG NGÀY HOA CỎ

 

Mong manh như giọt sương

Náu mình bên chiếc lá

Đêm qua heo may trở dạ

Sinh ra mùa thu nhiều lắm nỗi buồn

Tuổi thơ ngọt ngào bay ngang ngày hạ

Tiếng ve chiều rớt lại sau lưng

Như hạt chim tha , con rơi vào đất

Mọc vu vơ trong đời mẹ nụ cười

Và bao nhiêu tiếng khóc…

 

Ngày xưa…

Không biết tự bao giờ

Chừng như mẹ được sinh ra từ đất

Sinh ra từ cuộc trường sinh

Của Tổ Tiên nghìn năm phiêu bạt

Nên mẹ hiền

Và mênh mông tình yêu

Để yêu chúng con cho đến tận bây giờ

Chưa hết …

Chín mươi năm!

Một đời người mải miết

Bắt đầu từ buổi hừng đông

Cầm cuốc, cầm cày

Mò cua, xúc tép

Mẹ đi lấy chồng

Với của hồi môn

Là cây nọc gỗ Ngoại cho

Mang về đi cấy mướn

Bởi phận dâu nghèo, dẫu trong, dẫu đục

Cha đón mẹ về bên túp lều tranh

Đêm tân hôn côn trùng rỉ rắt

Hai kẻ nghèo hèn thề nguyện trăm năm

Cho dẫu cuộc đời bể dâu, đen bạc

Và ngày mai nghiệt ngàn bất trắc

Nuốt tiếng thở dài thâu đêm

Cha mơ giấc mơ An Tiêm

Vác mai, phãng ra đồng

Với sức bình sinh

Tát đồng sâu, đào bãi cạn

Nhặt khúc đồng dao

Đi mở luống, khai giồng

Trồng khoai, tỉa bắp

Để mẹ thương hoài những giọt mồ hôi

 

Chim trích gọi bầy trên cồn lảng xa xôi

Cá sấu quẫy đuôi bên gốc bần, bụi dứa

Trời trở dạ ráng chiều bầm ứa

Cho phận nghèo hẩm hiu

Kiếp gieo neo, bọt bèo

Sao lại là phận số?

Như rong rêu sinh ra từ ao tù

Như cỏ úa rữa thân từ đất ủ

Như bụi cát quặn mình trong nước lũ

Cha mẹ thành hạt phù sa sinh đôi

Rời cội nguồn tự nghìn năm

Trôi qua muôn vạn thác ghềnh

Tấp vào nhau đắp nên bờ bãi

Níu vào nhau trong cuộc đời chìm trôi

 

Rạch Bờ Tre – cuối xóm Ô Môi

Mẹ sinh con ra từ đêm trăng tròn vạnh

Rả rích ngoài hiên tiếng hát côn trùng

Sương tháng chạp se mình bên phiến lá

Dế đồng xa thao thiết mông lung

Trăng oằn xuống bên tiếng tu-oa

Nhẹ như tiếng đất

Gió đêm lành lạnh nhịp chày khuya

Cha cộ lúa thuê, mẹ một mình ngồi đợi

Tiếng tù-và dìu dặt bóng trăng quê

Xóm dưới, thôn trên

Gọi nhau vòng trâu,đạp lúa

Đứa bé sơ sinh cười mụ ngóng cha về

Đặt tên cho nó…

 

Con mò đất, vọc bùn

Giỡn nắng, đùa trăng

Bên lều, tum, ruộng mẩy

Mơ sự tích Lão tiều phu

Sớm bờ rơm, chiều bãi sậy

Đu cánh cò bay lả những mùa trăng

Bên rún nhau

Lớn lên cùng nương rẫy

Cha mẹ yêu con hơn của để dành

Núp dưới chân mây vui đùa cùng chim, dế

Bên cái chớp roi cày

Nghe cha dạy i… ơ…

Mẹ học cùng con chữ á, chữ tờ

 

Mẹ lại kể ngày xưa…

Không đất, không vườn

Bà Ngoại đi cấy mướn

Đêm Tháp Mười trai gái hát giao duyên

Ông Ngoại thua nên bị Ngoại bắt về

Làm thân rể mượn

Ông Ngoại có dì Hai, dì Ba

Rồi mắc bệnh đậu mùa

(Căn bệnh ngày xưa khó phương cứu chữa)

Ông phải nhờ người bạn thân

nuôi vợ, chăm con

Trong những ngày hoạn nạn

Người bạn chí thân dốc lòng thương cảm

Đi đập lúa ma, móc củ sen đồng

Bắt cá, đặt cua những mùa nước nổi

Nuôi vợ bạn và hai đứa con

– Cũng là cháu của mình

Rồi ông Ngoại nghĩ tình thôi như đã

Năn nỉ bạn hiền hãy nhận vợ dùm ông

Từ đó về sau

Bà ngoại nhận thêm ông chồng…

Là người bạn cũ

Đầm sen vẫn mấy mùa bông ngan ngát trổ

Bà Ngoại có thêm bốn người lưu dân nữa

Hai ông chồng vẫn ngày sớm thương nhau

Thương cả hai dòng con

Của người vợ hiền thương khó

Sướng khổ cùng nhau, êm ấm trong ngoài

Đi hết cuộc đời năm dài tháng rộng

Điệu giao duyên dần khuất bóng mây mưa

Yêu Ngoại,

Yêu câu chuyện đời mẹ kể

Vào chiến tranh đôi lúc cũng mơ về

Được một lần ngồi nghe Ngoại ngâm nga

Câu chuyện cuộc đời như mơ như thật

Của những lưu dân trôi nổi bao đời

Sau nghìn năm dặm trường mở đất

Nhưng Ngoại đi rồi – Ngoại đã đi xa

Mang theo chuyện ba người vào kiếp khác

Thêm yêu quý cuộc đời lang bạt

Của những con người mộc mạc cỏ rơm

Mà số phận lá lay đã đùa đẩy họ

Trôi đến tận cùng bến đục của nhân sinh

Những con người đã cho con

Tình yêu, sức mạnh

Nhà thơ Trúc Phương

Bên ngôi mộ vôi giữa đồng rêu phủ

Tiếng sấm về năm tháng gọi mưa

Miếng đất mượn làm thêm mùa phụ

Cha cấy lúa, trồng khoai, trồng đậu

Con lớn lên bên những trưa hè

Bông ngô đồng nở đỏ

Tiếng nắng xe buồn trong lỗ tai

Thinh thinh con cào cào gọi cỏ

Hỏi ngôi mộ có nhiều ma trong đó?

Cha vỗ đầu con: đừng nói dại với ông làng

Ở đấy là đất thiêng của nhà địa chủ

Đã xây từ mấy trăm năm –

khi cù lao Minh vừa có

Đất này vua ban cho ông bá hộ

Con ngơ ngác trên lưng cha

Nhìn mông mông nắng gió

Hạt mưa già chiều muộn ướt lòng cha

Bài ca dao buổi nào con hát được

“Nhà giàu mỹ vị, cao lương

Nhà nghèo rau muống chấm tương kém gì”

Khiến nụ cười nông phu của cha

Nghiêng bên mé ruộng

Bóng chiều xa ông trăng đu xuống

Con nghé ngọ lạc bầy ngó quanh

Bên đám cỏ đuôi chồn

Đàn chim áo già bay lượn

Nó ở hoài trong tuổi thơ con

Cùng khói đốt đồng

Và những áng mây xa bay về

Khi mùa vừa ngang qua đông

Đuổi nhau từng chùm gió chướng

Mỗi sớm cha đi cày

Thằng bé theo cha

Ngồi bờ đê

Bẻ lá sen che nắng xuống

Con ốc lác nằm mài thơm phức bữa ăn trưa

Bên mo cơm rau mắm mặn mà

Mùi cỏ dại mơ màng trôi vào giấc ngủ

Trong lạch đất thâm đen mồ hôi cha đổ

Chị trâu già cần mẫn lội qua ao

Kéo tiếp những đường cày ong ong nắng đỏ

Người và trâu một kiếp sinh tồn

Thương nhau như thân tình, bầu bạn

Trời xanh mây trắng nhân từ

Chở che cho những kiếp đời khổ nạn

Để còn vui với những tiếng cười hào sảng

Xanh trong

Ngày sinh nhật con tròn 4 tuổi

Cha mua cho con cây viết khắc tên

Và bộ đồ Tây ba túi

Con đâu hay “Võ Minh Thành”

Là tên của người đàn ông khốn nỗi

Cha đặt cho con

Để nhớ ông tù khổ sai

Trong vở tuồng

Đời cô Lựu

Cha yêu…

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Thời gian nối vào nhau

Hôm sớm đầm lung

Mấy mùa chim ấp trứng

Con thành thằng trai đi học trường làng

Năm đầu, chiếc cặp khâu bằng mo cau

Đựng tấm bảng đen, vở bài làm,

Đôi ba cuốn sách

Gò gẫm viết tên mình lên nhãn tập

Thương cái chữ của cha

Và tên Võ Minh Thành

Nhìn sao lạ hoắc

Năm lớp hai, mẹ làm cho con cặp lác

Mang vào trường mấy bạn cười trêu

Cặp gì đâu xấu mạt

Mẹ thương con

May tấm áo nhuộm chàm

Từ bao đựng bột

Ướp bằng những cánh bông dầu thơm

Mọc bên mé nước

Con mơ màng bên màu nắng ve chai

Hát lại bài ca dao thuở trước

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Cha dạy con học thuộc

Mỗi tháng năm xa

Mỗi ngày gần lại

Quá khứ dẫu buồn

Mẹ vẫn dạy con vui

Đất mẳn mồ hôi

Mẹ gieo trồng sự sống

Tiếng ầu ơ trong trẻo giấc mơ mềm…

Con đã đi tìm như thể đã từng quên

Tuổi thơ xưa bên gốc bần, gốc ổi

Tiếng ếch uệch,

Tiếng chim chuyền sớm tối

Giọng hoàng anh mắc ngang bụi tre già

Mỗi trưa hè nắng gội

Trái bắp, củ mì bên bếp lá khô un

Rạch Bờ Tre cần cù đưa nước vào lung

Hạt phù sa trôi theo chùm bong bóng

Chim vịt kêu chiều bên đìa bông súng

Bầy cá rô đồng ăn móng bờ ao

Con cò xanh tiếc ngơ tiếc ngẩn

Nắng gió mênh mang

Hương đồng nội oi nồng

Vi vu tiếng lá

Cóc kêu sấm về, cúm núm gọi giông

Con lắc nước giỡn đùa bên hà-lảng nhỏ

Cá lóc đồng về mương đẻ con

Mống trắng trời mưa

Mống vàng nắng đỏ

Quê hương lần đầu con nhớ

Là câu chuyện đời xưa về xóm dân nghèo

Tiếng “hú”, tiếng “ ỳ” gọi nhau

Khi sao hôm, sao mai vừa ló

Mùa rẫy mùa đồng da sạm nắng sương

Hai vợ chồng mặc chung chiếc quần vải ta

Để dành đi xóm

Đàn ông ra đồng áo rách vắt lưng

Quần bố tời, vải gai

Nhuộm trái trâm bầu đen màu bùn đượm

Nhà tranh tre mưa dội nắng lèn

Sưu thuế cho làng;

Xâu đinh cho tổng

Lúa ruộng cho chủ điền

Gạo tốt nạp trùm-đâu

Lao dịch hội tề, phú ông

Ngày tư ngày Tết

Tưới kiểng, trồng hoa

Dọn sân, sơn cổng

Tát đập, khai đìa

Bửa củi, đốn cây

Uống nước lã ra về

Đói run, bước sụm

Căm hận ngất trời…

Nhưng biết làm sao

Việt Minh trong làng có mấy người đâu

Một cây dao dâu, một thanh mã tấu

Đâu đủ để vùng lên làm cuộc đổi đời

Mấy bận trên về gọi dân theo kháng chiến

Địa chủ, quan làng, cai tổng kéo quân

Càn quét ngày đêm

Bắt được người có cảm tình với Việt Minh

Là mổ bụng,chặt đầu

Tống giam khám chẹt

Dân cam phận ngựa trâu

Dám đâu bẻ nạng chống trời

Làm quân loạn phản

Phải đến khi bộ đội Khu về

Đánh bót Rô-be

Dân tình mới được một lần

hả hê, tở mở

Rồi đình chiến Năm Mươi Tư

Đường vô ruộng phất phơ cờ đỏ

Vui chưa trọn mùa lúa, vụ khoai

Quan tổng, tề làng lại sừng sộ súng lê

Lùa quân càn qua thôn ấp

Máu lại đổ, đầu lại rơi

Làng xóm lại chìm trong địa ngục

Đất Việt Minh chia lại vào tay địa chủ

Ngô Đình Diệm về với bài ca suy tôn

Máy chém, nhà tù,

Cực hình lê trên đất

Bên hàng cau cu ngói chẳng bay về

Con nước lớn, con nước ròng

Rạch Bờ Tre lặng lờ u uất

Bìm bịp kêu rười rượi nỗi buồn

Dáng mẹ chèo khua lắc ánh sao khuya

Cho những phiên chợ nghèo tháng chạp

Dân xóm nghèo xưa

Bị lùa vô nhà giam Chợ Lách

Vì tội nhận đất Việt Minh giao

Cảm tình Cộng sản

Bác Hai, bác Tư ở tù

Mẹ phải thăm nuôi

Mấy cô lấy chồng còn mang theo nước mắt

Cha rời Bờ Tre

Về Vàm Kinh thuê vạt đất gò

Rồi mua dần, làm công trả góp

Con học trường làng

Ngày tháng tuổi thơ qua

Năm Năm mươi Tám

Cậu Út nhà mình bị lính tổng Bình Hưng

Bắn bị thương, bắt sống

Dân khiêng cậu Út ngang trường

Trong bộ áo bà ba đen

Bê bết bùn sình, máu loang cánh võng

Giờ ra chơi, con lẻn chạy qua nhà làng

Với tay lên hàng rào gai

Gọi to vô trỏng

“Xin mấy ông đừng giết cậu tôi

Cậu tôi không làm Việt cộng”

Một ông lính rằn ri

Nắm lỗ tai con dỡ nhổng

Lôi con quẳng ra ngoài như chú cún con

Trợn mày quát thét:

“Đồ Việt cộng con, chó chết!”

Con thấy cậu Út nhíu mặt, gắng xoay người

Nhìn về phía con

Như cố nói với thằng cháu nhỏ rằng:

Con về đi

Cậu Út nợ con cánh diều

Và hai con dế lửa

Ngày hôm qua – lúc chiều về – cậu hứa

Cô giáo lớp ba A

Chạy tìm con hớt hải

Rồi cô khóc ngọt lành – đưa con vào lớp

Cả lớp ngồi lặng im

Góc trời nghiêng bóng tối

Cây me già lim dim

Lá rơi thành giọt lệ

(Ngày hòa bình – 15 năm sau,

Con về thăm cô giáo

Cô giáo làng nay thành người đảng viên già

Nhắc chuyện ngày xưa

Cô giáo bảo:

Bức thư con gởi về

Cô vẫn cất trong rương)

 

Thấy nhớ quá ngày thơ mẹ nhỉ

Từ bận đó…

Con muốn thành hiệp sĩ

Dọc ngang nào biết trên đầu…

Như người trong truyện hồi xưa

Ở Vàm Kinh cha lật đất, bạt gò

Đào mương lên liếp

Trồng bắp, dưa, rau cải mấy mùa

Mẹ chắt chiu từng đồng trả cho chủ đất

Như nô lệ trả tiền để mua lấy tự do

Những mùa ổi, mùa chanh

Gió nồm, gió bấc

Cũng qua dần cái thuở hàn vi cơ cực

Sớm chiều

TRÚC PHƯƠNG

(Còn tiếp)

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *