VHSG- Lời người dịch: Đây là một bài khá dài và nặng nề nhưng rất bổ ích, cho mọi người. Điều thú vị là mình đang dịch sang tiếng Việt một bài viết tiếng Việt được dịch sang tiếng Anh.

Tôi đến Mỹ lần đầu tiên vào mùa hè năm 1998. Lúc đó, tôi được mời tham dự một hội nghị văn chương tại Montana cùng bốn tác giả Việt Nam khác. Chúng tôi khởi hành từ Hà Nội đến Đài Loan và sang Los Angeles. Tôi ngủ suốt hành trình bay xuyên Thái Bình Dương, qua nhiều múi giờ và chỉ bị đánh thức khi máy bay chạm mặt đất. Chúng tôi đi vào một sảnh rất to để kiểm tra hộ chiếu, và đó là lúc tôi cảm thấy giựt mình: bọn Mỹ khắp nơi, bao vây chúng tôi! Tôi không bao giờ quên được cảm giác kì lạ đó. Mọi thứ thật dễ sợ, không thể tin được, và siêu thực với tôi. Tôi, một cựu quân nhân của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, đang ở Hoa Kỳ, và xung quanh toàn là người Mỹ.
Lần đầu tiên tôi thấy Mỹ là khi tôi 12 tuổi. Nhưng đó không phải là những tên Mỹ tóc vàng, mắt xanh. Mỹ mà tôi thấy hôm đó là những chiếc oanh tạc cơ F-4 Phantom đang hung hãn đánh phá các thị trấn nhỏ dọc Vịnh Hạ Long. Hôm ấy là ngày 5 tháng 8 năm 1964 và tôi đang đi tham quan bãi biển cùng trường của mình, bơi lội đùa giỡn với bạn bè. Đó là thời điểm ngay sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, và Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố sẽ mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Việt Nam.
Sau ngày hôm đó, cuộc đời của tôi, cha mẹ, anh chị của tôi, cũng như của tất cả những người Việt Nam khác, đều bị đảo lộn. Kể từ đây, chúng ta phải sống dưới một bầu trời luôn vang rềnh tiếng phi cơ, bom nổ, và còi báo động. Hầm trú bom được đào khắp các nẻo đường và dưới mỏi căn nhà tại Hà Nội. Điện nước bắt đầu thiếu hút. Chúng tôi không được thắp sáng đèn vào ban đêm. Thức ăn, quần áo, xăng, giấy, tập vở và các nhu yếu phẩm khác đều bị thắt lưng buộc bụng, nhưng cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu của người dân. Người ta bắt đầu phải xếp hàng dài trước các tiệm mậu dịch. Trẻ con dưới 16 tuổi bị sơ tán đến vùng nông thôn và phải sống xa bố mẹ. Những trải nghiệm đó không khác mấy điều mà trẻ em Anh Quốc đã phải trải qua ở London năm 1940, chỉ khác là thế hệ ở Hà Nội đã phải chịu đựng dài hơn – từ năm 1964 đến 1973 – dưới một điều kiện khắc khổ hơn.
Gia đình tôi vốn gốc ở Đồng Hới, là một thị trấn nhỏ đầy hoa ở miền Trung Việt Nam và thường được ví von là “Thị Trấn Hoa Hồng.” Vào năm 1946, gia đình tôi ra Nghệ An, ở Bắc Việt Nam, và đó là nơi tôi ra đời vào năm 1952. Sau Hiệp Định Geneva năm 1954, bố mẹ lại đem tôi ra Hà Nội. Vào những ngày đầu của cuộc không kích, quê tôi ở Đồng Hới gần như bị san phẳng; những gì còn sót lại chỉ là bức tường cũ kỹ của một nhà thờ chánh điện và ngọn tháp trữ nước. Chỉ riêng trong năm 1965, bom đạn của Hạm đội Bảy Hoa Kỳ đã lấy đi sinh mạng của 32 người trong dòng họ của tôi.
Tuy vậy, bất chấp mất mát và hy sinh, tôi không nghĩ là người dân có bao giờ bị nhụt chí. Trái với những gì mà Lầu Năm Góc tiên đoán, những trận không kích chỉ làm cho chúng tôi hang hái gia nhập quân ngũ hơn. Bản thân tôi muốn nhập ngũ ngay từ tháng 9 năm 1969, chỉ vài tháng trước sinh nhật lần thứ 18 của mình. Tại sao ư? Tôi muốn chiến đấu chống giặc ngoại xâm, và trở thành một người đàn ông chân chính, một công dân mẫu mực. Bố mẹ tôi thì muốn tôi đi học đại học và từ chối kí vào đơn để tôi nhập ngũ từ năm 17 tuổi. Nhưng trước sự kiên quyết của tôi, bố mẹ đành chiều lòng. Mẹ khóc hết nước mắt khi kí vào lá đơn cho tôi và quân ngũ.
Lúc đó, chiến tranh đã diễn ra được năm năm, và đang ở giai đoạn đỉnh điểm. Vào năm 1969, không ai ở Hà Nội thực sự tin vào những thông tin về cuộc chiến từ bộ máy tuyên truyền của chính phủ. Khi tôi tình nguyện nhập ngũ, tôi cũng không thực sự ảo tưởng về số phận của mình. Tôi không dũng cảm, không nhanh nhẹn, và cũng không thông minh. Tôi không phải là một chiến binh thực thụ. Tôi biết cơ hội sống sót của mình là rất ít. Nhưng bất chấp những gì có thể xảy ra với bản thân, tôi vẫn luôn tin rằng rốt cuộc thì người Việt Nam cũng sẽ đánh thắng quân xâm lược và thống nhất đất nước. Tôi không hy vọng rằng bản thân sẽ làm nên một chiến thắng vẻ vang như thế hệ cha ông tại Điện Biên Phủ, và tôi biết bọn Mỹ mạnh hơn bọn Pháp rất nhiều. Nhưng tôi có một lòng tin cũng như bao đồng chí khác của tôi vào những gì Hồ Chủ tịch đã nói – rằng cuối cùng Hoa Kỳ sẽ bỏ cuộc và cuốn gói về nhà.
Vào tháng 1 năm 1970, sau ba tháng được huấn luyện sử dụng AK-47, súng phóng lựu và lựu đạn tại quân trường, đơn vị chúng tôi được gửi vào vùng Tây Nguyên chiến đấu bằng lối Đường Mòn Hồ Chí Minh. Chúng tôi đến Kon Tum vào tháng 5 và được phân vào các đơn vị chiến đấu khác. Tôi được phân về Tiểu đoàn 2, Sư đoàn 10, đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Mặt trận B3. (Vào năm 1973, tôi được điều chuyển về Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24 và ở đấy cho đến khi chiến tranh kết thúc.) Kẻ thù mà chúng tôi phải giáp mặt tại Tây Nguyên vào thời gian đó là các sư đoàn 22 và 23 của miền Nam Việt Nam, sư đoàn 4 Bộ Binh và sư đoàn Không Kỵ số 1 của quân đội Hoa Kỳ.
Thời điểm năm 1970, quân số Hoa Kỳ bắt đầu giảm trên chiến trường Việt Nam để phục vụ cho chiến lược “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” của Richard Nixon, với lối mô tả đầy mỉa mai rằng nó sẽ “đổi màu da của những xác lính.” Nhưng sự ác liệt của chiến tranh thì không hề suy giảm, cũng như sự hiện diện của lính Mỹ trên chiến trường thì vẫn như vậy. Gần như hàng phút, hàng giờ, chúng tôi vẫn cảm nhận được sự tham chiến của Hoa Kỳ, với những phi vụ đánh bom từ 10.000 mét của B-52, hay các phi pháo 105 ly, 155 ly, và 175 ly liên tục nã xuống đầu chúng tôi. Một trận không kích B-52 hay một đợt hỏa pháo có thể san phẳng cả ngọn núi, lấp những dòng sông, hay đốt cháy cả các cánh rừng. Tôi lúc đó là một trinh sát và ít có dịp phải đọ súng trực tiếp với lính Mỹ. Phần lớn thời gian, tôi quan sát lính Mỹ từ xa bằng ống nhòm của mình.
Nhưng tôi thường thấy bọn Mỹ ở vị trí rất gần – đó là những phi đội trực thăng vũ trang. Chúng tôi phải chiến đấu với các phi đội này hàng ngày mỗi khi chúng trườn người ra cửa của trực thăng Cobra hay Huey và nã đại liên vào đơn vị chúng tôi. Trực thăng trinh sát OH-6 là dễ bị phát hiện hơn cả. Những chiếc trực thăng này chỉ bay cao hơn ngọn cây và lởn vởn cách nơi chúng tôi trú ẩn chỉ đôi ba mét. Phi đội của chúng sẽ bắn M-16 và ném lựu đạn vào chúng tôi, và chúng tôi có thể bắn trả bằng AK-47 hoặc trung liên của mình. Những tên lính Mỹ tinh ma nhưng dũng cảm đó đôi lúc bay thấp đến mức chúng tôi có thể thấy rõ mặt chúng, màu tóc của chúng, và thỉnh thoảng là cả màu mắt của chúng.
Lần cuối cùng tôi giáp mặt lính Mỹ trên bộ là vào một buổi sáng tháng 4 năm 1971, gần đèo An Khê. Tôi quan sát thấy một trung đội lính dù đang tuần tra trên Đại lộ 19. Nhóm lính này có vẻ không phòng bị gì, hành quân theo một hàng dọc gần căn cứ của mình. Chúng không biết là mình đang bị ba trinh sát chúng tôi âm thầm theo dõi, bí mật ngụy trang trên một ngọn đồi chỉ 100 mét cách đường lộ. Và chúng không biết rằng một đơn vị lính Bắc Việt vũ trang hạng nặng đang chờ chúng ở khúc quanh chỉ nửa cây số phía trước.
Cho đến hôm nay, tôi vẫn có thể nhớ rõ hình ảnh của những người lính đó. Tôi đặc biệt nhớ đến tên lính radio đeo theo một điện đài PRC-25 trên vai. Tôi không hiểu tại sao lính điện đài mà không đi cạnh đại đội trưởng của mình mà lại đi ra phía rìa, rơi lại đằng sau cả nhóm. Hắn có vẻ rất hờ hững, không mặc áo chống đàn, chẳng đội mũ, cũng không có súng M-16 hay phóng lựu bên mình, mà chỉ đeo mỗi chiếc điện đài. Hắn có mái tóc nâu ngắn, không để râu. Qua ống nhòm, tôi thấy hắn đang nhai cái gì đó, có thể là kẹo cao su. Hắn đi lửng thửng, quơ chân đá lon Coca trên đường. Mười lăm phút sau, tiếng súng nổ báo hiệu với tôi rằng trung đội Mỹ này đã rơi vào ổ phục kích.
Tôi không biết số phận của tên lính điện đài đó thế nào, liệu hắn có thoát chết không. Vào năm 1998, trong chuyến thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên, hình ảnh tên lính trẻ đó và âm thanh của vỏ lon Coca lăn lốc trên đường lại xuất hiện trong đầu tôi mỗi lần tôi đến một trường đại học hay trung học nào đó và thấy những thanh thiếu niên Hoa Kỳ tại giảng đường hay chơi đùa tại bãi cỏ. Hắn chỉ là một đứa trẻ đang trên đường về nhà sau giờ học, nghịch ngợm với bất cứ thứ gì hắn thấy trên đường.
Chiến tranh đã qua rất lâu rồi nhưng khi ngủ, tôi vẫn mơ thấy ác mộng về cuộc chiến. Tôi vẫn nghe thấy tiếng rít của hàng trăm quả bom được B-52 thả xuống, tiếng rú của các khẩu đội pháo và tiếng xé gió của quạt trực thăng. Tôi vẫn thấy các trung đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ mặc áo chống đạn, đội mũ cối, quơ tiểu liên M-16 khi chúng đổ bộ từ các trực thăng Chinook.
Tệ nhất là tôi không thể quên kí ức khủng khiếp về dioxin. Vào mùa hè năm 1971, khi tôi đóng quân ở Tây Kon Tum, lính Mỹ đã thải Chất Độc Màu Da Cam liên tiếp vào chúng tôi. Tôi không biết những phi công Mỹ trên các phản lực C-123 Caribous có biết được mức độ tai hại khủng khiếp của chất hóa học chúng đã rải không, hay là chính các công ty sản xuất ra chất độc đó có biết hay không. Chúng tôi thì hiểu rõ sự tàn khốc của loại chất độc này. Ngay sau khi những chiếc Caribous bay qua đầu chúng tôi, bầu trời sẽ trở nên tối đen lại, đem theo một cơn mưa dầy, đặc quánh, và kì lạ. Cây cối xung quanh bắt đầu úa tàn, gẫy đổ, và rơi xuống đất. Lá, hoa, trái cây, ngay cả những mầm con, im lặng chết đi. Lá xanh trở thành đen và teo tóp lại. Cỏ úa màu và chết. Tôi đã chứng kiến nhiều khung cảnh tàn khốc của chiến tranh, nhưng chính sự thảm sát thiên nhiên đó lại là những gì ám ảnh tôi nhất trong giấc ngủ cho đến bây giờ.
Lần cuối cùng tôi thấy Mỹ là vào những ngày cuối của cuộc chiến. Đơn vị chúng tôi đã tiến rất sâu vào Sài Gòn và tiếp cận sân bay Tân Sơn Nhứt. Cũng như tháng 8 năm 1964, Mỹ tôi thấy vào tháng 4 năm 1975 đang bay lượn trên trời, trong những chiếc F-4 Phantoms. Nhưng lần này, những chiếc oanh tạc cơ đó chỉ đang làm nhiệm vụ che chắn cho cuộc thoái lui của những binh lính, công dân, và nhân viên ngoại giao Mỹ còn xót lại tại miền Nam Việt Nam. Những người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Sài Gòn vào rạng sáng 30 tháng 4 năm 1975. Đến trưa hôm đó, chế độ Sài Gòn tuyên bố đầu hàng. Cuộc chiến tranh tàn khốc tưởng chừng như không bao giờ hết đã chính thức chấm dứt.
Đơn vị của tôi ở lại Sài Gòn vài tuần cho đến giữa tháng 5 năm 1975 thì được chuyển về lại Tây Nguyên. Nhiệm vụ của chúng tôi lần này là tìm kiếm thi thể của các đồng đội còn nằm lại, quy tập hài cốt liệt sĩ. Vào cuối năm đó, sau 6 năm chiến đấu ở miền Nam, tôi được về nhà. Tôi không rõ con số thống kê nhưng trong 25 bạn cùng lớp của tôi ra chiến trường, chỉ có 11 người sống sót trở về. Trong ba thanh niên đăng lính tại khu tập thể nhà tôi tại Hà Nội, duy chỉ có tôi là về lại được nhà.
Giờ đây, sau 23 năm kể từ ngày trở về, tôi lại đang gặp những người Mỹ. Tôi sẽ không bao giờ quên những ngày chúng tôi cùng nhau tại giảng đường lớn của trường đại học ở Missoula, nơi các cựu binh Hoa Kỳ và Việt Nam ngồi kế nhau và thảo luận về văn học nước nhà, chia sẻ các tác phẩm của mình. Văn học quả đem đến sự kì diệu. Ở Missoula, lần đầu tiên tôi nghe những vần thơ nổi tiếng của Henry Wadsworth Longfellow trong bài “Mũi tên và Khúc hát”, được dịch sang tiếng Việt và đọc bởi nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Những vần thơ của Longfellow thật vừa vặn với không khí lúc đó: tình bạn, tình yêu cuộc đời và hòa bình.
Cùng tinh thần đó, Giáo sư Philip West, giám đốc Trung tâm Mansfield của Đại học Montana, cũng đọc một bản dịch tiếng Anh của tác phẩm “Chơi đền khán xuân” của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương: “Êm ái chiều xuân tới khán đài / Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai!” Những vần thơ của nữ thi sĩ Việt Nam nghe du dương như khúc nhạc và hòa vào không khí yên bình của Missoula. Tuy tôi không nói được tiếng Anh, nhưng tôi vẫn cảm nhận được tinh thần mà những bài thơ của người Mỹ đem lại.
Khi tôi gặp trực tiếp những tác giả Mỹ này, tôi đã phải cố giấu đi vẻ sửng sốt của mình. Chẳng lẽ Kevin Bower, người đàn ông trầm lặng với nụ cười thân thiện đang ôm chặt tay tôi, thực sự là một tay lính súng máy của Sư đoàn Không Kỵ số 1 đóng ở An Khê? Tiểu thuyết gia Larry Heinemann có gì giống với tên lính chiến của Sư Đoàn 25 Tia Chớp Nhiệt Đới đã từng rất hung hãn ở Tây Ninh? Làm sao tưởng tượng được Bruce Weigl, tác giả của những vần thơ lãng mạn, lại là một tên lính từng giúp giải vây cho trận Khe Sanh?
Hội nghị cũng quy tụ rất nhiều cựu chiến binh đến từ khắp nơi trên tiểu bang Montana để chứng kiến những trao đổi của các tác giả Việt Nam và Hoa Kỳ, và để thấy gặp chúng tôi, những người đã từng là kẻ thù của họ. Trưởng ty cảnh sát Missoula Peter Lawrenson từng tham chiến ở Việt Nam từ năm 1970 đến 1972 với tư cách là cố vấn cho quân đội Nam Việt Nam tại Kon Tum. Khi ông ta biết tôi là một cựu chiến binh của Sư đoàn 10 Bắc Việt đã từng chiến đấu chống lại đơn vị của ông, ông đã ôm chầm lấy tôi như thể một người bạn vong niên. Trong suốt thời gian tôi ở Montana, cảnh sát trưởng Lawrenson đã đích thân lái xe đưa bọn tôi tham quan Helena, Great Falls, và Billings.
Ở Missoula, chúng tôi được đưa đến đài tưởng niệm những người lính đã thiệt mạng tại Việt Nam. Đó là vào tuần lễ sau ngày lễ Tưởng Niệm và nhiều người vẫn đến thăm khu vực này. Dưới chân của một khối đá lớn khắc tên những người lính đã ngã xuống, người dân để lại hoa, bưu thiếp, ảnh kỷ yếu, những cuốn sổ nhật ký, la bàn quân đội, một số báo năm 1966 của tạp chí Stars and Stripes, một bi đông với hail y thủy tinh nhỏ và một bật lửa Zippo kiểu cũ. Chúng tôi thấy cả một cái bánh sinh nhật và nến trên đỉnh. Đài tưởng niệm ở Missoula nhỏ hơn nhiều so với Bức Tường ở Washington, nhưng nỗi buồn và cảm xúc nó đem đến cho người tham quan thì không khác mấy. Tôi đoán là đa số những người ở đây là người quen của ít nhất một ai đó có tên khắc trên phiến đá, còn số còn lại thì là khách tham quan.
Tôi gặp một giáo viên về hưu và tưởng lầm bà là mẹ của một người lính hy sinh. Thông dịch viên giải thích với tôi rằng bà đến từ San Francisco và từng dạy cấp ba ở Missoula nhiều năm. Mỗi khi có dịp quay lại, bà sẽ đến thăm Tommy. Tommy từng là học trò của bà, tốt nghiệp năm 1970, và ngay lập tức bị bắt tòng quân. Mùa hè năm tiếp theo, gia đình của Tommy nhận được giấy báo tử. Tommy chết chỉ chưa đầy một năm sau ngày tốt nghiệp. Tại sao cuộc đời của cậu lại ngắn ngủi như vậy? Vừa tròn 18, cậu tốt nghiệp phổ thông, trở thành lính và sau sáu tháng quân trường, cậu lên máy bay với bạn của mình, bay đến nơi cách nửa vòng trái đất, đóng quân ở một nơi nào đó ở Việt Nam, có thể là Đà Nẵng, mặc áo chống đạn và đội mũ cối và cấm súng ra chiến trường. Là một tân binh, có lẽ cậu bị giết chỉ vài phút ngay trong trận đánh đầu tiên của đời mình. Tôi tự hỏi không biết người lính yểu mệnh này có bao giờ được mừng sinh nhật lần thứ 19 của mình không, hay cậu có ở Việt Nam đủ lâu để một lần thấy mặt trời mọc.
Chúng tôi ở Mỹ hơn một tháng và tham quan Montana, Massachussetts, Rhode Island, New York, và Washington. Ở mọi nơi, từ các hội thảo đến những buổi gặp mặt nhà xuất bản, hiệu sách, độc giả, chúng tôi đều được chào đón nồng nhiệt. Sự ấm áp và hiếu khách của người Mỹ dành cho các tác giả Việt Nam khiến chúng tôi cảm thấy xót xa cho những người dân và đất nước của họ ngày hôm nay. Nó làm tôi nghĩ về tính phi nghĩa và tàn bạo của cuộc chiến mà người Mỹ đã tiến hành tại Việt Nam 25 năm trước.
Lúc đó tôi 46 tuổi, và tôi hiểu rõ thời gian trôi qua là không thay đổi được. Nhiều năm tháng trôi qua, cuộc chiến dần chìm vào quá khứ. Cuộc chiến có vẻ không còn phủ bóng lên đời sống hàng ngày ở Mỹ và Việt Nam nữa. Vết thương nó mang lại đang dần liền da. Nhưng suốt chuyến thăm Hoa Kỳ, những ký ức về cuộc chiến mà tôi ngỡ đã chôn vùi từ lâu bỗng chốc quay trở lại, rõ ràng và đau đớn hơn trước rất nhiều. Cho đến hôm nay, cuộc chiến vẩn ám ảnh tôi, bao phủ cuộc sống và văn của tôi. Như tất cả những ai đã trải qua chiến tranh, tôi mơ rằng thế hệ tương lai sẽ sống trong hòa bình và giã từ vũ khí. Nhưng tôi biết giấc mơ của tôi không thể thành hiện thực. Là một nhà văn và đặc biệt là một cựu binh, tôi biết rằng sâu thẩm bên trong những cánh đồng xanh hòa bình vẫn chất chứa những bộ hài cốt và tro tàn từ các cuộc chiến quá khứ và, tệ hơn nữa, là mầm mống cho những trận đánh trong tương lai.
Thế hệ của tôi, những người đã sống qua Chiến tranh Việt Nam, học được rất nhiều điều từ quá khứ u ám và đau buồn của mình. Tôi tự hỏi không biết những bài học mà chúng tôi đã phải trả giá rất đắt để có được liệu có truyền lại cho thế hệ mai sau? Nếu thế hệ tương lai không hiểu, hoặc quên đi những bài học này, liệu rằng có phải chúng ta sẽ lặp lại những sai lầm trong quá khứ, sẽ lại gây nên những tội ác tương tự, sẽ lại tạo ra những thảm họa giống như cha ông, và sẽ lại gieo rắc nỗi buồn như những gì mà thế hệ chúng tôi đã nếm trải?
BẢO NINH
LÊ NGUYỄN DUY HẬU dịch
Theo New York Times
Chúng tôi không hèn nhát như Bảo Ninh trong bài viết này.
Tôi là “hậu thế” của Bảo Ninh như bài viết nói tới là sẽ đọc, sẽ biết và sẽ hiểu những điều gì, tức là tôi và nhiều người đọc bài viết này là ít tuổi hơn tác giả. Nhưng, tôi đủ tự tin để nói như tiêu đề cảm nhận này. Tôi sẽ từ từ giải thích điều này. Trước hết những câu từ rõ ràng một phong cách Bảo Ninh thì tôi không nói làm gì. Tôi vẫn rất ấn tượng các bài phỏng vấn, một vài truyện ngắn của tác giả Bảo Ninh hoặc có tác phẩm viết về chiến tranh mà mọi người vẫn thường nhắc tới như là một thành công của anh. Tôi chỉ xét bản chất Bảo Ninh trong bài viết này mà thôi.
Bản thân Bảo Ninh và phong cách của anh như thế nào thì tôi không được gặp, chưa tiếp xúc và cũng chưa hiểu nhiều ngoài một vài bài đã nhắc ở trên nhưng trong tôi đã có sự cảm mến, nhưng tới bài viết này thì hình ảnh ấy xụp đổ. Tôi nhận thấy Bảo Ninh ở một khía cạnh khác làm tôi thất vọng, cũng chẳng phải quan tâm bởi đó là điều đương nhiên và không bắt buộc tôi phải xây đắp hình tượng hoặc tôn trọng, cho dù mình ít tuổi hơn, cho dù mình là thế hệ sau.
Trong bài viết kể về nhân vật là tác giả lần đầu sang Mỹ, rồi kể về những lần gặp Mỹ trước đây, đoạn đầu của bài viết. Đoạn này, thường mục tiêu của Bảo Ninh là khoe mình đi bộ đội, khoe các số liệu của bản thân mình và đó là sự thật bởi do chính tác giả viết ra – không ai là độc giả có thể minh chứng được nếu như tác giả nói dối. Có người sẽ hỏi lại, nhà văn nói dối làm gì? Bảo Ninh nói dối làm gì? Và đương nhiên người đọc hiểu đó là sự thật. Đây là một đầu mối và là một ý đồ của Bảo Ninh cho những thông tin sau này. Bảo Ninh đặt viên gạch tin tưởng vào trong trí óc người đọc một cách thông thường và tiểu sảo. Chúng ta tiếp tục đọc các phần khác của bài viết. Tác giả nhắc tới lựa chọn đăng lính của mình, nước mắt người mẹ, tức là quan điểm của thế hệ trước. Không biết sau 75, thì 79 tác giả có sung phong ra tiền tuyến nữa không? Có lẽ là không, cho lên tác giả mới còn sống tới bây giờ và viết những bài giống như thế này. Hoặc mới có cơ hội sang Mỹ lần đầu tiên như thế này và sang tới cả tháng trời, và đi nhiều nơi, gặp nhiều người là nhân chứng sống, rồi phải viết bài, và có lẽ bài này là kết quả của chuyến đi và đương nhiên được dịch ra tiếng Mỹ và rồi lại dịch về tiếng Việt Nam. Không phải sợ sự tam sao thất bản vì tôi tin ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ khác trên thế giới không làm mất đi một tí tì ti sự thật nào của Bảo Ninh.
Sự ngỡ ngàng về các nhà văn nhà thơ là người lính cứ như thật, giống như các con số mà Bảo Ninh đã chỉ ra trước đó, nào là sư đoàn, tiểu đoàn, vị trí hành quân, loại súng, loại máy bay, trận càn…vân vân và vv. Làm sao mà phải soắn việc ngạc nhiên với cả chính mình. Bản thân Bảo Ninh cũng giống họ mà giờ phải thốt lên những câu để mị đầu óc người đọc đến như thế. Bảo Ninh đưa chúng ta đi từ sự thật đến ngạc nhiên và khám phá ra. Chuyện tiếp theo là người cô giáo, thế hệ trước của người hy sinh, tương đương với thế hệ người mẹ khóc khi ký cho Bảo Ninh đăng lính. Nhưng hai cách thức và hình ảnh khác nhau. Một bên là tôn nghiêm, còn một bên tác giả nói chính mẹ mình, so sánh một cách hèn hạ đến như vậy là cùng.
Người lính trẻ 17 tuổi mà, ngôn ngữ thâm sâu cảu Bảo Ninh nói ra là chưa chắc đã thấy mặt trời, tức là anh ta mới tới đêm ấy và đã bị giết chết thời thanh xuân này cho dù chưa làm điều gì tội lỗi. Như Bảo Ninh viết thì rõ ràng tác giả không rõ thông tin mà chỉ viết để có ngụ ý so sánh với chính mình. Bị bắt đi, tức là theo hệ thống, tức là phải đi lính để chiến đầu vì quốc gia. Còn Bảo Ninh là vì sự căm thù, sự thù hận với Mỹ đã thả bom chứ chẳng vì quốc gia đại sự. Vì thế sau khi kết thúc năm 75 thì Bảo Ninh an phận cuộc sống để kệ đồng đội mình, kệ giang sơn lâm nguy. Chết như anh lính Mỹ chưa tròn 18 tuổi còn hơn “sống mòn” để viết lên những bài viết như thế này. Đó là một phần lột tả bản chất tác giả không tính tới những câu từ tính cách của Bảo Ninh như: “không ai ở Hà Nội thực sự tin vào những thông tin về cuộc chiến từ bộ máy tuyên truyền của chính phủ. ” “Tôi không dũng cảm, không nhanh nhẹn, và cũng không thông minh. Tôi không phải là một chiến binh thực thụ. Tôi biết cơ hội sống sót của mình là rất ít. Nhưng bất chấp những gì có thể xảy ra với bản thân, tôi vẫn luôn tin rằng rốt cuộc thì người Việt Nam cũng sẽ đánh thắng quân xâm lược và thống nhất đất nước. Tôi không hy vọng rằng bản thân sẽ làm nên một chiến thắng vẻ vang như thế hệ cha ông tại Điện Biên Phủ, và tôi biết bọn Mỹ mạnh hơn bọn Pháp rất nhiều. ” Là một nhà văn và đặc biệt là một cựu binh, tôi biết rằng sâu thẩm bên trong những cánh đồng xanh hòa bình vẫn chất chứa những bộ hài cốt và tro tàn từ các cuộc chiến quá khứ và, tệ hơn nữa, là mầm mống cho những trận đánh trong tương lai.” “liệu rằng có phải chúng ta sẽ lặp lại những sai lầm trong quá khứ, sẽ lại gây nên những tội ác tương tự, sẽ lại tạo ra những thảm họa giống như cha ông, và sẽ lại gieo rắc nỗi buồn như những gì mà thế hệ chúng tôi đã nếm trải?” …nói chung là tôi không phân tích những câu từ này bởi đó là sản phẩm của Bảo Ninh, là đặc trưng của anh.
Tôi sẽ bóc cái vỏ khác, hoặc tìm ra cái mưu mẹo, hoặc tính nghệ thuật cỏn con khi áp dụng trong bài viết này như ở trên tôi đã nói qua thông qua hình tượng thế hệ đi trước chính là mẹ của Bảo Ninh, người cô giáo Mỹ, bản thân mình và anh lính 17 tuổi kia. Không gì hèn hạ bằng những sự so sánh ấy để đổi lấy sự nhìn nhận của bạn đọc, tôi cảm thấy kinh tởm cho việc này, có thể nói là nhân tính cá nhân và ruột thịt đã được bôi nhọ và đưa ra làm cái lá chắn vững chắc để bảo vệ cho kẻ thù, cho dù họ không phải là kẻ thù, họ cũng là những nạn nhân. Tại sao một người có trình độ và kinh nghiệm viết như Bảo Ninh lại không hiểu ra vấn đề này. Hãy từ từ đi từ đâu bài viết như sau:
Đoạn đầu Bảo Ninh thốt lên “siêu thực với tôi” thì tôi coi là sự bình thường và là một phán hiện có tính chuyên môn nghề nghiệp của một tác giả. Tiếp theo đoạn 2 là hình ảnh người Mỹ trong mắt tác giả là những gì hiện đại, to lớn, mạnh mẽ …vv thì thực là một nghịch cảnh. Bảo Ninh đã học xong phổ thông, sau này còn đi nhiều và viết nhiều, và đương nhiên hiểu về nước Mỹ, về lịch sử hình thành và phát triển châu Mỹ, hiểu về các cuộc cách mạng công nghiệp ở nước ngoài, chắc là Bảo Ninh họt dốt, sao mà quên mất điều đó, hoặc là Bảo Ninh đang kể là lúc anh 12 tuổi. Ok việc đó là cảm nhận của một đứa trẻ. Bảo Ninh viết tiếp “Tôi muốn chiến đấu chống giặc ngoại xâm, và trở thành một người đàn ông chân chính, một công dân mẫu mực. Bố mẹ tôi thì muốn tôi đi học đại học và từ chối kí vào đơn để tôi nhập ngũ từ năm 17 tuổi. Nhưng trước sự kiên quyết của tôi, bố mẹ đành chiều lòng. Mẹ khóc hết nước mắt khi kí vào lá đơn cho tôi và quân ngũ.” đoạn này chỉ rõ người mẹ mình ép buộc mình không được làm người chân chính? một góc nhìn của thế hệ đi trước khác với thế hệ bị bom Mỹ ném, bịn nhìn thấy từ khi 12 tuổi là những lần thấy Mỹ to lớn và sợ hãi đến như vậy. Thế có đúng là những năm tháng đi học và nhận thức sau này Bảo Ninh chả học và biết gì về sự hình thành và phát triển của châu Mỹ, của công nghiệp phương Tây là gì! Không đi sâu bóc từng lớp ý của tác giả chúng ta sẽ bị lừa.
Các đoạn tiếp theo Bảo Ninh đã bóc lấy thông tin của bản thân mình, một sự thật nào đó để khoe khoang, để khẳng định vai trò của mình, để chứng minh mình không giệt một người Mỹ nào cả. Đổi ngược lại mình còn thấy người Mỹ làm việc giống mình tức mang bộ đàm …còn chẳng coi chiến trường ở Việt Nam là chiến tranh. Anh ta vẫn đá cái lon cô-ca trên đường rừng…hình ảnh anh linh dễ thương nhưng sau đó là chủ lực mạnh của Việt Nam đang dình mò, đang ở trong tối ở phía trước để giết chết anh ta, ôi thật dùng dợn của chiến tranh phi nghĩa ở đây là thế này sao? Cái con sâu đục ở phía trong làm lòng ta đau nhức hơn là những gì bên ngoài tác động làm ta gẫy xương. Thế hệ sau đọc Bảo Ninh sẽ như câu kết trong bài này đầy ngụ ý của anh, và anh sống để tạo ra những điều ngụ ý như con sâu ăn ở trong tủy như thế này sao?
Người Mỹ thích nghe những điều này, đương nhiên vì thế mà bài viết của Bảo Ninh được dịch hoặc cả chuyến đi của anh cả tháng trời chắc không phải là chi phí mà anh bỏ túi ra đâu nhỉ. Tôi vẫn tiếp tục đọc đến hết và có khi tới chết bài viết này của Bảo Ninh để xem hình tượng xụp đổ trong tôi như thế nào. Dần dần ý nghĩ coi thường, xem thường, khinh thường lớn dần trong tôi.
Bảo Ninh không thể không biết người lính Mỹ trên những chuyến bay thả chất độc cũng bị tác động bởi chất độc, và càng không thể chả vờ mà không biết hàng triệu người Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam này. Nhưng ngòi búc, nhưng ý thức, nhưng trách nhiệm và bổn phận của Bảo Ninh lại tàn nhẫn mà rò xét hỏi người lính Mỹ, hỏi nơi sản xuất và cung cấp chất độc, và “là những gì ám ảnh tôi nhất trong giấc ngủ cho đến bây giờ.” và đúng chỉ như thế với một tâm hồn, với một cây viết và con người đã từng trải như Bảo Ninh, tôi cảm thấy buồn thay.
Bảo Ninh nhắc tới sự thơ ngây trong sáng của người lính Mỹ, các trang bị như áo chống đạn, máy bay hiện đại tên này tên kia, súng này súng kia, B52, vv tất cả viết để cho người đọc thấy được cái tư duy lấy lòng người Mỹ, những bà mẹ, những thế hệ tương lại người Mỹ. Còn phía trên Bảo Ninh kể về bản thân với giọng điệu ngược lại cũng là để cho người đọc Việt Nam hiểu, người đọc Mỹ biết chính xác rồi không nhầm về người chiến sĩ Bảo Ninh này đâu. Thật nhục nhã khi phải dùng đến cách này trong một bài viết để lấy lòng người khác, vì thế mà tôi mới đặt tiêu đề trên cho bài cảm nhận này. Thế hệ sau sẽ đọc và không bị chìm vào những gì Bảo Ninh dẫn dắt, rồi ngụ ý trong những câu kết. Hoặc thiếu tôn trọng để nói rằng những xương cốt anh hùng, những người đã hy sinh cho dân tộc, cho đất nước lại sẽ là những mầm mống cho chiến tranh trong tương lai. Tôi có thể phỉ nhổ vào tư duy này của Bảo Ninh. Xin lỗi khi một người ít tuổi đang nói về ông (Bảo Ninh) như vậy. Và tôi chấp nhận tổn thọ khi mà đã dùng lời lẽ không bình thường, mất đạo đức, không tôn trọng đối với ông ở đây!
Đọc tiếp sẽ thấy cảm giác của Bảo Ninh đứng trước và so sánh với bia chữ tên người chết vì chiến tranh ở Việt Nam ở một vài nơi. Và tôi nghĩ mình viết cảm nghĩ này đã hơi dài, và tôi không muốn nói gì thêm nhiều về Bảo Ninh nữa. Xin được dừng lại ở đây và sẵn sáng phản hồi và trao đổi với tác giả hoặc các nhà nghiên cứu phê bình, người đọc, người lớn tuổi, bằng tuổi hoặc thế hệ tương lai về bài cảm nhận này.
Ngụy phong đả tre Nguyễn Hồng Minh