Văn Cao – Quẻ Văn

Mở đầu trường ca Những người trên cửa biển, ông viết “Sinh ra tôi đã có Hải Phòng”. Cũng có thể, sinh ra ông đã là nghệ sĩ. Nghệ sĩ Văn Cao như một quẻ, gồm có 3 hào: âm nhạc, thi ca và hội họa. 3 hào này giao hòa với nhau mới thành quẻ. Ông thường ký tên trên tác phẩm của mình là Văn. Tôi gọi quẻ này là Quẻ Văn.

Nhạc sĩ – nhà thơ Văn Cao (1923 – 1995)

Vào một tối hè oi ả, Hà Nội lao xao trở lại sau hồi còi báo yên, cô nhân viên của Hội Văn nghệ rón rén gõ cửa nhà nhạc sĩ Văn Cao, đưa ông tập bản thảo “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”, đặt ông làm bìa.

Cắm xong bó hoa hồng cô gái tặng, đặt lên trên chiếc dương cầm, rót chén rượu quốc lủi, rượu ông thửa riêng từ người bà con ở xứ đạo ngoại ô. Bom Mỹ cứ giội, Hà Nội vẫn có hoa và rượu.

Tập bản thảo không dầy lắm, đánh máy trên giấy pơ luya mầu nước trà loãng. Họa sĩ Văn Cao vừa nhấp rượu vừa đọc, đến khuya đã xong.

Cái vỉa hè như áo cài khuy

Sau sự kiện vịnh Bắc Bộ, tháng 8.1964, Mỹ bắt đầu ném bom phá hoại miền Bắc. Hà Nội, các thành phố lớn, các cảng biển là mục tiêu chính. “Những năm bom Mỹ trút trên mái nhà”… Ông già bà cả dắt díu bế bồng trẻ con chạy về quê sơ tán, người lớn vẫn ở lại thành phố, tay búa tay súng, vừa sản xuất vừa chiến đấu.

Cuộc sống thời chiến giai đoạn này được cụ Nguyễn Tuân gói trong tập Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Hội Văn nghệ Hà Nội, in năm 1972), gồm 9 tùy bút được viết rải rác trong khoảng thời gian từ 1966 -1972. Tên của tùy bút số 7 được lấy làm tên của cuốn sách.

Như đã nói, ở Hà Nội và các thành phố chỉ người già trẻ con đi sơ tán, người lớn vẫn phải trụ lại, công trường nhà máy vẫn hoạt động, cho nên vỉa hè nào cũng có hầm cá nhân để trú ẩn khi còi báo động máy bay địch tới.

Đoạn kết Tùy bút số 7, Nguyễn Tuân tả: “Bên các gờ hố cá nhân mở nắp, trên các lề phố, trước cổng các cơ quan, trên mặt đường nhựa, từ khắp năm cửa ô trở vào, hoa sấu vẫn nở vẫn vãi vương khắp thủ đô tưng bừng chiến thắng”.

Điều khó nhất của họa sĩ thiết kế bìa sách là phải tìm cho ra được hình ảnh chìa khóa, hình ảnh logo, vì hình ảnh ấy sẽ ôm trọn nội dung cuốn sách. Người họa sĩ thiết kế trước tiên phải là người đọc. Văn Cao quá tinh khi chọn hình ảnh hố cá nhân. Bố cục bìa sách khúc chiết, chia đôi trên/dưới, trời/đất. Phần trên là tên tác giả và tên sách mầu xanh áo lính, dưới là hình những hố cá nhân đã được cách điệu, cô đọng, biểu cảm, khỏe chắc với hai mầu đen và ghi.

Nhà họa sĩ Văn Cao ở phố Yết Kiêu, nhà thơ Trần Dần ở Vũ Lợi, nhà thơ Đặng Đình Hưng ngay Nguyễn Thượng Hiền, các ông cùng là hàng xóm với một quán rượu quen, quán Xiếc vì quán đối diện cổng rạp xiếc. Nhà thơ Đặng Đình Hưng tuần nào cũng đạp xe về quê, làng Thụy Hương gần chùa Trăm Gian cất rượu, bán lại cho “bà Xiếc”, lãi quy thành rượu để uống với bạn bè.

Ngoài các thầy còn các thi sĩ tửu đồ trẻ hơn như Phan Đan, Đào Trọng Khánh… xoay vần tháng năm chỉ loanh quanh chuyện trò văn nghệ chứ còn biết chuyện gì mà nói, thi thoảng đọc cho nhau nghe vài ba câu thơ lẻ.

Khuya hôm ấy, đã ngà ngà, trước khi dìu Văn Cao về, Đào Trọng Khánh đọc một bài thơ mới của ông: “Cái vỉa hè như áo cài khuy/ Hố phòng không sũng nước”.

Cuối thu, đầu đông 1972, Hà Nội căng như dây đàn, ai cũng linh cảm về những ngày tới, Mỹ sẽ leo thang bằng B52 để san phẳng Hà Nội. Hình như bữa ấy họ uống nhiều hơn? Trần Dần, Đặng Đình Hưng đi cùng nhau về, hai ông chia tay dưới gốc cây bàng ở cửa nhà Trần Dần. Đám còn lại đưa Văn Cao về, phố vắng, vỉa hè nhiều “khuy áo” hơn, có cả những cái mới đào thêm, dở dang nham nhở.

Hình ảnh hố cá nhân trong tùy bút của Nguyễn Tuân và trên hè phố đã cộng hưởng tạo ra xúc cảm cho designer Văn Cao vẽ thành bức tranh làm hình nền của Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi.

Văn Cao họa sĩ và chuyện tay trái nuôi tay phải

Với Văn Cao, thiết kế đồ họa là một nghề, logo tạp chí Văn Nghệ, nay là Tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam cũng là thiết kế của ông cùng họa sĩ Trần Văn Cẩn.

Một số bìa sách mà ông thiết kế cũng rất đáng nhớ như tập thơ Hương cây/Bếp lửa của Lưu Quang Vũ, in chung với Bằng Việt (Nhà xuất bản Văn Học 1968), đây chính là tập thơ “chào sân” của Lưu Quang Vũ hoặc Tuyển tập ca khúc Làng tôi của ông (Nhà xuất bản Văn Hóa, 1975)… Những tranh làm hình nền cho bìa sách của ông đều thống nhất theo tinh thần ước lệ, gợi hình chứ không tả hình, thật thà kể lể. Cũng có thể coi đó là những bức tranh bán trừu tượng.

Bên cạnh thiết kế bìa, ông còn tham gia vẽ minh họa thơ, văn cho các báo, chủ yếu là báo Văn Nghệ. Sau “tai nạn” Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956 đến khi Đổi mới năm 1986, Văn Cao họa sĩ sáng tác nhiều hơn Văn Cao nhạc sĩ, đời sống khó khăn, tay trái nuôi tay phải qua ngày nhưng ông vẫn vui, “mùa bình thường, mùa vui nay đã về” (bài Mùa xuân đầu tiên, 1976).

Bộ tứ Nghiêm Liên Sáng Phái cùng Văn Cao trong giai đoạn này là những người có công lớn trong việc cách tân minh họa, minh họa của các ông đều là những tác phẩm độc lập… Xem lại minh họa Kiều của Nguyễn Tư Nghiêm (bản in song ngữ Việt – Pháp, Nhà xuất bản Ngoại Văn, 1979), minh họa Hề Chèo – Hà Văn Cầu (Nhà xuất bản Văn Hóa, 1977), minh họa chính trong cuốn Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Bùi Xuân Phái, minh họa của Văn Cao trong sưu tập của ông Bổng (Hàng Buồm)… thì thấy rõ cá tính sáng tạo của từng họa sĩ in đậm trên minh họa thế nào.

Giai đoạn 1945-1954, Văn Cao cũng đã là một cây bút minh họa quen thuộc cho các tờ Độc Lập, tạp chí Văn Nghệ, báo Lao Động, nhất là hai tờ Quân Bạch Đằng và Gió Biển của Hải Phòng quê ông.

Với cách tạo hình lấy nét làm chủ đạo, vài ba nét để bắt được đặc điểm nhân vật, cái thần của nhân vật, Văn Cao cũng để lại cả dấu ấn trong thể loại ký họa chân dung. Chân dung Nguyễn Tuân, bác sĩ Trần Duy Hưng, họa sĩ Tạ Tỵ, nhà phê bình Đặng Thai Mai…

Nguyên cớ nào đưa Văn Cao đến với hội họa?

Hồi nhỏ ở Hải Phòng, ông chỉ mới dừng ở mức độ thích vẽ, thích tìm hiểu về hội họa. Nhà thơ Thụy Kha kể: “Hồi ấy, vào khoảng 1942, vừa như thế là trốn chạy cho xa cái không gian của cuộc tình, vừa là tính lang thang của nghệ sĩ, vừa là thực sự muốn tìm một nghề gì vững chãi để kiếm miếng cơm manh áo, Văn Cao quyết định lên Hà Nội. Dù lúc ấy, ông đã rất nổi tiếng bởi những nhạc phẩm Buồn tàn thu, Thiên thai, Bến xuân  Suối mơ, nhưng tân nhạc lúc đó chỉ để chơi, không làm ra cơm áo được.

Lên Hà Nội, Văn Cao chuyển hướng sang hội họa. Ông nhập học khóa dự bị của Trường Mỹ thuật Đông Dương với sự khuyến khích của họa sĩ Lưu Văn Sìn. Ở lĩnh vực này, Văn Cao cũng tỏ ra có một tài hoa kỳ lạ, hứa hẹn nhiều. Làm sao quên được những ngày lang thang sống nhờ bè bạn. Một bữa cơm canh cá ở nhà Nguyễn Đình Phúc. Một ít mầu dầu của Lưu Văn Sìn cho là biết bao đùm bọc, là biết bao tình nghĩa.

Văn Cao đâu có phụ lòng bè bạn. Ở triển lãm duy nhất đầu năm 1944 này, ba bức sơn dầu của ông: Cô gái dậy thì, Thái Hà ấp đêm mưa và nhất là bức Cuộc khiêu vũ của những người tự tử đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc.

Ba bức tranh được treo ở chỗ tốt nhất của phòng tranh Hội Khai Trí Tiến Đức”. (Trích Văn Cao – Những tài danh âm nhạc Việt Nam của Nguyễn Thụy Kha).

Qua đó để thấy sự dạy của Trường Mỹ thuật Đông Dương tốt thế nào và tố chất tự học rất đặc biệt của Văn Cao, kể cả tự học âm nhạc. Tất nhiên bên cạnh đó còn là yếu tố thiên bẩm mới có thể tạo ra họa sĩ, nhà thiết kế đồ họa Văn Cao. Mỹ thuật không chỉ là đồ họa, ký họa, minh họa, biếm họa, Văn Cao vẽ nhiều biếm họa nhưng cốt yếu của hội họa vẫn phải là những tác phẩm sáng tác bằng sơn dầu: Chân dung nhà văn Đặng Thai Mai (100x70cm/sơn dầu trên toan/1977), Thanh niên vùng cao (59x79cm/sơn dầu trên toan/1978), Chân dung ông Lâm (82x60cm/sơn dầu trên toan/1971).

Vâng, 1971, đạn bom sống chết, ông Lâm vẫn bán cà phê, khi rảnh vẫn đến nhà Văn Cao ngồi mẫu. Văn Cao vẫn vẽ, vẫn có sơn và toan to để vẽ và chắc hẳn từ khi bắt đầu vẽ đến khi kết thúc thì nhiều lần bị dừng đột ngột vì còi báo động, “đồng bào chú ý, đồng bào chú ý máy bay địch cách Hà Nội…”, còi báo yên, vẽ tiếp. Nếp sống thời chiến nó thế thì phải thuận theo, đã đành nhưng cũng phải nói, đó là cái chất Hà Nội, chất chơi, chất kệ…

Tuy chỉ học dự bị hai năm, tuy số lượng tranh không nhiều, tuy cái tên nhạc sĩ Văn Cao che lấp phần nào cái tên họa sĩ Văn Cao nhưng không thể phủ nhận những đóng góp của ông cho giai đoạn đầu tiên của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

Đặc điểm dễ nhận biết nhất trong thẩm mỹ hội họa của ông chính là kết hợp hài hòa giữa hội họa và đồ họa. Tạo hình bằng nét kết hợp mảng phẳng, không sa đà vào chi tiết, bỏ qua kiểu vờn tỉa, tả khối, sáng tối. Đặt tác phẩm của ông trong những năm tháng đó, bên cạnh những tác phẩm của các họa sĩ khác mới thấy cái riêng, cái mới của Văn Cao.

Đi tìm cái mới, ủng hộ cái mới là tính tình của ông. Còn nhớ hồi 1948 ở Việt Bắc, cùng Nguyễn Đình Thi, ông đã nhiệt tình cổ xúy cho thơ tự do, thơ không vần.

Tôi không đặt ra câu hỏi, hồi ấy nếu Văn Cao tiếp tục theo học Trường Mỹ thuật Đông Dương sau hai năm dự thính (1942-1944) thì thế nào? Bởi lẽ tháng 3-1945 khi Nhật đảo chính Pháp thì trường cũng đóng cửa, hơn nữa như đã nhắc, bản thân Văn Cao là người có chất tố tự học rất cao và cuối cùng, cái khác biệt – điều quan trọng nhất để nhận định về một họa sĩ – mà Văn Cao đóng góp cho hội họa đủ để ông là họa sĩ Văn Cao rồi.

Hoặc nói như nhà thơ Đặng Đình Hưng, bạn ông: “Nếu anh là nhà thơ thì tôi sẽ khám túi anh xem anh có vài ba chữ ở trong không? Nếu anh là họa sĩ thì túi anh có hình nào, mầu nào không?”.

Mở đầu trường ca Những người trên cửa biển, ông viết “Sinh ra tôi đã có Hải Phòng”. Cũng có thể, sinh ra ông đã là nghệ sĩ. Nghệ sĩ Văn Cao như một quẻ, gồm có 3 hào: âm nhạc, thi ca và hội họa. 3 hào này giao hòa với nhau mới thành quẻ. Ông thường ký tên trên tác phẩm của mình là Văn. Tôi gọi quẻ này là Quẻ Văn.

LÊ THIẾT CƯƠNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *